VÀI DÒNG CHIA SẺ
1/ Nếu kiến thức Địa lý Âm Trạch là vô giá, tại sao các Thầy không giữ mà dùng riêng cho bản thân và dòng họ, lại đi làm ba cái việc lòe thiên hạ mà kiếm sống ?
Nói như vậy thực sự là chưa thấu hiểu về kiến thức Địa lý cùng 2 chữ ngộ duyên. Phàm là người đọc sách, yêu mến Huyền học chắc phải nhận ra chân giá trị của kiến thức, người hữu duyên được truyền thụ kiến thức vô giá, sao lại dùng một cách tùy tiện, người đọc sách cổ nhân ngộ ra yếu quyết, sung sướng hơn bắt được vàng, đâu phải ai cũng mong rằng nghiên cứu học thuật cổ điển chỉ để làm giàu cho bản thân hoặc lòe thiên hạ, đâu phải như vậy. Nếu không được Thầy chỉ tay học việc và truyền thụ tâm cơ, thì cố gắng thực nghiệm một đời, mới nhận ra vài điều bổ ích. Việc áp dụng cho bản thân không đơn giản chỉ là lý thuyết, phải bỏ công sức, tiền bạc, thời gian, thực nghiệm đủ nhiều mới mong hiểu được huyền cơ. Chỉ những người mới học cách luận Âm Dương Bát quái, Ngũ hành, dịch lý… hiểu biết chưa thấu đáo, chưa từng thực hành táng mộ, chưa thấy kết quả ứng nghiệm như thế nào mới buông lời như vậy, còn với người hiểu biết thật sự, trãi nghiệm đủ nhiều sẽ chẳng bao giờ dám phát ngôn lệch lạc.
2/ Hay tôi đã áp dụng Phong thủy, sữa sang nhà cửa mộ phần mà không thấy may mắn hơn chút nào ?…
Có vô vàn những câu hỏi kiểu này, phần lớn đều xuất phát từ những thân chủ đã không dưới vài lần cầu đến các thầy Phong thủy nhưng không có hiệu quả gì, thậm chí còn xấu hơn
Thực ra hiệu quả trong việc áp dụng Phong thủy xưa nay phần lớn là may rủi, người được lợi lộc thì âm thầm giữ kín, không muốn cho ai biết, sợ người khác hơn mình, sợ bị đố kị, dèm pha, bị cho là mê tín…còn những thân chủ tự nhận là bị mắc lừa cũng không thể nói ra, chấp nhận cay đắng xem như là bài học mà thôi. Tuy Phong thủy được mọi người đề cao nhưng luôn nghi ngờ liệu Phong thủy có mang lại lợi ich thiết thực, do đó cái nhìn định kiến của xã hội cũng là bình thường. Vì phần lớn không có sách vỡ nào ghi chép rõ ràng hiệu quả của Phong thủy đến dâu, và ít có thầy nào khẳng định sẽ mang đến lợi ích gì cho thân chủ, những lời hoa mỹ chỉ có tác dụng làm yên lòng là chính, đánh vào yếu tố tình cảm, tâm lý cửa người đang gặp khó khăn, bế tắt trong cuộc sống.
Một phần do tài liệu sách vở tràn lan, chân giả lẫn lộn làm khó các Thầy, cũng có thể do bản thân các Thầy thiếu kinh nghiệm thực tiễn, không rõ sự khác biệt giữa Âm trạch và Dương trạch, không hiểu mệnh lý, hoặc hành nghề chỉ vì lợi lộc mà không màng đến việc tạo phúc, nên thật khó có thể giải thích tại sao hai người cùng học Phong thủy dùng chung một La bàn khi thực tập đo đạc bia mộ tại Nghĩa trang, cùng một thời điểm, cùng một vị trí trên bia mà kết quả độ số lại sai lệnh với người kia đến 5 độ, cho dù có thay đổi La bàn khác thì 2 người cũng cho 2 kết quả rất khác nhau. Điều này chỉ có thể lý giải do từ trường mỗi người khác nhau, vậy chẳng lẽ khi làm Thầy thực sự thì một người sẽ tạo phúc cho thân chủ, còn một người sẽ mang đến tai họa sao.
Vậy rõ ràng việc cầu được Thầy hay cũng là tùy duyên đó thôi, nên nhớ khi vận khí xấu thì quyết định của bản thân sẽ kém may mắn, dễ phạm sai lầm, chuyện muốn sửa sang nhà cửa, mộ phần lúc này xem ra rủi nhiều hơn may, chuyện không thấy tốt hơn thiết nghĩ còn do nhiều nguyên nhân khác nữa, trong đó không thể không tính đến phúc phận của thân chủ.
3/ Bia mộ và thông tin trên bia có ảnh hưởng gì không ?
Các bia mộ xưa thường rất dày và nặng vài trăm kg đến vài tấn, khắc chữ thủ công ghi lại những thông tin về người mất, quê quán, năm sinh năm mất, danh vị, công trạng, chuyên môn…đối với văn hóa Trung Hoa có ghi tên thầy Địa lý định huyệt vị, chọn ngày giờ, phân kim độ số, phương hướng hoặc một dấu ấn đặc biệt xung quanh nơi chọn táng . Các lăng mộ cổ ở Trung Hoa thì thấy rõ chi tiết này, mục đích lưu lại thông tin cho con cháu mai sau chứng thực, hoặc để tiện tu bổ, sửa sang. Đây cũng là một sự khẳng định tên tuổi chuyên môn của thầy Địa lý. Rõ ràng Địa lý Âm trạch vốn rất được coi trọng trong văn hóa táng mộ người xưa.
Thông qua việc tìm hiểu gia cảnh, thân thế… con cháu các đời sau của người được táng đối chiếu với sự tính toán chọn lựa phân kim, hướng độ, cách cục trời đất.. nơi lập bia sẽ thấy quyết định của vị Thầy xưa là rất chuẩn xác, ứng nghiệm vào hậu nhân con cháu nhiều đời. Bia mộ chính là nơi lập Thái cực định phúc khí cho người đang sống, nên cần nặng để không thể di chuyển trong một thời gian lâu dài.
4/ Tôi muốn được may mắn phải làm gì ?
Có một nghịch lý, ít có thân chủ nào sẵn sàng chi nhiều tiền cho việc được tư vấn cải tạo, bố trí phong thủy Âm trạch, dương trạch hay muốn biết khí số bản thân, chọn thời cơ mà hành động, hay việc định ngày giờ tạo tác mệnh vận…, phần đông thường chọn cách hành hương, cúng bái thần linh, cầu phước đức, tiền tài, tình duyên…vì cho rằng có cầu tất có ứng, mọi chuyện mong sớm thoát khỏi bế tắc.. Thực ra nhiều người hiểu sai về cầu nguyện và thần Phật (tôi sẽ đề cập trong một câu chuyện khác). Việc cầu xin chỉ có ý nghĩa mang lại sự tịnh tâm, an ổn trong lòng. Vấn đề tiên quyết là cần thay đổi, cải thiện môi trường sống, bố trí nơi ăn ở, nơi làm việc hợp cách, tu sửa phần mộ…chính là cải thiện gốc rễ phúc khí của bản thân mới mong may mắn hơn thôi.
Mọi vật chất, con người, sinh vật trên thế gian bản chất đều thuộc về Ngũ hành, âm dương, cùng tồn tại trong không gian, thời gian tất thảy đều có quy luật vận hành, nếu hiểu được sự biến hóa của Ngũ khí, âm dương tiêu trưởng, lẽ thịnh suy của trời đất của đời người mà suy xét, quy nạp vào bản mệnh từng cá nhân sẽ rõ cái đạo lý nằm trong đó. Họa hay phúc đều do lời nói và hành động mà ra, tuy sang hèn có số, thịnh suy tùy thời, nhưng thành bại chính là dựa vào nổ lực bản thân, phúc khí chính là do quyết định đúng, nếu cái giá phải trả cho sai lầm là rất lớn, thì việc đạt được thành công xem là vô giá, Vậy tại sao bạn không đặt niềm tin vào việc sớm cải thiện phúc khí của mình.
Có câu chuyện thật được ghi lại tại một ngôi làng ở Cống Châu, Giang Tây cách đây cả ngàn năm. Tiên Sư Dương Quân Tùng được một nhà giàu mời đến tìm đất táng mộ, Ông xác định khu đất lập được 9 huyệt vị dành táng người thân khi qua đời. Gia chủ có nhiều thê thiếp, trong đó người thiếp thứ 3 với đứa bé trai hãy còn nhỏ tuổi, nghĩ rằng khi lớn lên sẽ không có địa vị như các anh trai của các bà vợ khác nên để lại di thư là sau khi mất được táng vào một trong các huyệt vị kia rồi quyên sinh. Kết quả 18 năm sau, đứa bé lớn lên học hành đỗ đạc lập được công trạng có chức tước làm rạng rỡ gia tộc. Câu chuyện được ghi lại tại nơi 9 huyệt vị kia để minh chứng sự ứng nghiệm của Địa lý Âm Trạch và bản thân Tiên sư nói riêng. Những chuyện liên quan đến việc tầm long điểm huyệt, xem Phong thủy nhà ở hay các điển tích liên quan đến Tiên sư rất nhiều, tuyệt học cổ nhân nếu được hiểu và ứng dụng một cách đúng đắn, giá trị mang lại không thể đo lường hết được.
5/ Các thầy Địa lý xưa và nay
Ngày xưa các thầy Địa bên Trung Hoa sang tận nước Nam tầm Long điểm huyệt, phần lớn các Thầy hành nghề do tổ tiên truyền lại, kiến thức trong dòng phái sỡ hữu nhiều bí thuật và luôn được giấu kín, không phải ai muốn học cũng được. Các thầy tìm huyệt theo đơn đặt hàng từ các Vương công Đại thần, nhà giàu quyền thế, muốn tìm chân long huyệt đích để con cháu hậu thế tiếp tục quan vị, chấn hưng gia thế, dòng tộc.
Bản thân các thầy vẫn biết vùng nào có huyệt cát, song việc dành cho mình hoặc dòng họ mình không đơn giản là chỉ đặt xuống huyệt là xong, bởi liên quan đến một số cấm kị, nắm bắt được thiên cơ không có nghĩa là đặc quyền, sông núi có khí thiêng, huyệt đích dành cho người có chân mạng, có tuyệt học không phải là xem thường người khác. Đơn giản nếu xem đó là nghiệp thì phải hành nghề, bởi xung quanh luôn có sự soi xét của Thần Linh, của Thiên Địa và bản thân dẫu có muốn huyệt vị kia cũng không đơn giản, phải tích đủ công đức, có lá số sinh thần phù hợp được Quỷ thần cho phép mới có thể dành được, chưa kể sinh mệnh có định trước khi nào thì hết số trời, việc tính toán sẽ có sai lệch rất lớn với thời vận. Còn chuyện mang hài cốt từ trung Hoa qua nước Nam đường xá xa xôi thời xưa là vô cùng gian khó, phải do chính các thầy sắp đặt làm cho thân chủ mới khả thi. Vậy xem ra hành nghề làm thầy Địa lý sẽ tốt hơn rất nhiều, tiền công hậu hĩnh, mười năm thực hiện vài ba huyệt đã đủ cho cuộc sống sung túc rồi, người dân nghèo không thể mơ được. Những thầy hành nghề chuyên nghiệp tại bản quốc cũng có một vị trí rất được coi trọng, song vì mang tính bí mật, các Quan lại luôn muốn giữ kín vi trí huyệt vị tổ tiên, nên thường nhờ Thầy địa lý tầm long ở các nơi xa xôi, tìm chân long huyệt đích, đảm bảo tính bí mật.
Ngày nay cũng vậy, trên đường du ngoạn khảo sát huyệt mộ, núi non, vẫn thấy các huyệt vị tốt mà giao thông có phần thuận lợi là thấy các bia mộ chữ Hán, phong cách xây mộ không lẫn vào đâu được, có thể đơn sơ nhưng thần thế quy cũ, phép tắc bố trí có cục, tựa Sơn gần nước thủy khẩu minh đường rộng rãi, tả hữu phân minh có thần, nhìn qua đã biết có Thầy chỉ dẫn, thử đo phân kim độ số, thì biết ngay người Thầy thuộc trường phái nào, phần lớn cũng chỉ nhìn thấy địa thế Loan đầu đẹp mà chọn, chứ không hẳn Lý khí thông suốt. Có những mộ còn phạm những lỗi cơ bản, song biết vậy, ngẫm lại cũng không trách được, chỉ hiềm nỗi người ta từ xa xôi đem hài cốt song thân đến tận xứ này, dành được huyệt tốt, trong khi người dân sống tại nơi này không biết bao nhiêu đời, bên cạnh một địa huyệt lý tưởng mà không biết, âu cũng là số trời. Càng ngẫm càng thấy xót xa, nước Nam từ xưa là nơi có nhiều chân Long, chẳng vậy mà các Thầy Tàu vẫn chăm chăm tận dụng địa thế bảo địa, táng mộ phần tổ tiên của họ, khí mạch nào lớn lao thì tìm cách phá bỏ, sách vở thì cố tình truyền bá kiến thức sai lạc, hòng điên đảo nhân tâm những dân tộc lân bang, không muốn ai hơn họ.
Tận như bây giờ, mấy ai còn quan tâm và biết đến thuật Địa lý để làm gì, ra sức đào núi ngăn sông làm cho sinh khí thất tán, địa mạch không còn, lòng người càng trở nên ám muội, tôn sùng vật chất mà tranh đấu lẫn nhau…Còn tại nơi cội nguồn sinh ra môn Phong thủy, người dân tự biết giữ gìn mộ huyệt tổ tông, không có chuyện phá rừng, đào núi, tranh nhau nơi đỉnh cao của mặt đất mà làm nhà, đắc ý nhìn thiên hạ dưới chân mình, mà họ chọn nơi chân núi, cạnh dòng sông con suối lấy nghề nông làm kế sinh nhai, lấy giao thương để cuộc sống sung túc, không mong giàu có, chỉ mong sinh thế từ trên cao đổ vào nhà mình, nương tựa khí mạch mà an gia. Cái được là sinh ra người tài cho xã hội, con cháu nhận được vượng khí của trời đất, từ đây càng đi xa càng thành công, càng ra khỏi quốc gia càng thịnh vượng. Khác nhau chỉ một chữ biết.