Tính chất liễu nghĩa

Pháp Môn Mật Tịnh

Đây là một pháp tu bí mật của Phật giáo, dạy về cách “bắt ấn”, “trì chú” v.v... Pháp tu nầy có
tính chất liễu nghĩa (trọn đủ), căn cứ vào nơi tâm pháp bí truyền.

Pháp Môn Tịnh Độ

TỊNH ĐỘ :

Là cõi nước thanh tịnh của tất cả (10 phương ba đời) chư Phật. Cho nên cõi ấy nhiều đến vô số lượng, không thể nói ra, không thể bàn luận cho được. Và trong đó tất cả Chánh báo (hữu tình chúng sanh). Y báo (vô-tình chúng sanh) đều được thanh tịnh. Nói chung, cõi PHẬT nào cũng là cõi “Tịnh Độ” cả. Tuy chư Phật nhiều như vậy, nhưng trong 10 phương 3 đời chư Phật, chỉ có Đức Phật A DI ĐÀ là “Đệ nhất” (Xem Kinh Vô Lượng Thọ).

Không phải Phật A DI ĐÀ lớn hơn những Phật khác, hoặc là các Phật khác nhỏ hơn Phật A DI ĐÀ đâu, vì tất cả chư Phật đều đồng đẳng với nhau, đều cùng một pháp thân gọi là :

THANH TỊNH PHÁP THÂN TỲ LÔ GIÁ NA PHẬT

Trong Kinh nói :

PHẬT PHẬT ĐẠO ĐỒNG (tức là tất cả các Đức Phật đều đồng một đạo với nhau). Đó là đạo Niết Bàn giải thoát, đầy đủ 10 hiệu  (Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thượng Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn). 

Tại sao Phật Thích Ca nói Phật A DI ĐÀ là đệ nhất ‌ ?

Bởi vì Ngài đặc biệt có :

  • 48 “ĐẠI NGUYỆN”  bất khả tư nghì (nguyện lực tiếp dẫn cứu độ chúng sanh không thể nghĩ bàn).
  • Chúng sanh được sanh về cõi của Ngài là sẽ được sanh ra từ 9 phẩm Liên Hoa.
  • Nếu ai nhứt tâm thành kính xưng danh hiệu Ngài một câu, cũng đủ sức diệt tội trong 80 ức kiếp sanh tử trước kia.
  • Dầu cho có tạo đủ tội ngũ nghịch, thập ác, khi lâm chung được thiện tri thức khuyên bảo, nhứt tâm chí thành xưng danh hiệu của Ngài từ một niệm tới 10 niệm một cách dõng mãnh, người đó sẽ mang luôn cái nghiệp còn (dư) lại của mình, nương theo “nguyện lực” của Ngài mà vãng sanh về Cực Lạc quốc, thoát vòng sanh tử, luân hồi. Sau đó tiếp tục “Tu” hoài (không thối tâm) cho đến ngày thành Phật.
  • Ánh sáng của Ngài vượt trội hơn các ánh sáng của chư Phật (quang trung cực tôn).

Cho nên, Phật Thích Ca mới khuyên chúng sanh nên niệm Phật A Di Đà và nguyện sanh về cõi Tịnh Độ của Ngài. Pháp môn Tịnh Độ cũng do đây mà bắt đầu.

TỊNH ĐỘ giáo môn là một phương pháp tu tập mà trước hết là :

  1. Nương vào nơi “tự lực” hành trì của riêng mình.
  2. Nương theo “nguyện lực” tiếp dẫn của Phật A DI ĐÀ (tha lực) mà “đới nghiệp vãng sanh.”

Trong Kinh dạy rằng:

Muốn được sanh về cõi Cực Lạc phải có đầy đủ những tâm sau đây:

  1. Chí-thành Tâm : Tức là phải có cái tâm chí-thành và tin tưởng
  2. Thâm trọng Tâm : Tức là cái tâm “ân trọng” và “tin tưởng” thâm sâu nơi Phật A DI ĐÀ, pháp môn Tịnh Độ và đại nguyện của Ngài một cách sâu chắc, không có gì lay chuyển nổi (dù cho ai nói ngã nói nghiêng, bảo bỏ tu theo pháp môn Tịnh Độ nhất quyết không bỏ)
  3. Tâm bất sát : Tức là giữ đủ các giới hạnh, đọc tụng Kinh Điển Đại Thừa phương đẳng, giảng giải Kinh Đại Thừa, hoằng dương Tịnh Độ (độ nhiều người tu theo Tịnh Độ pháp môn)
  4. Tứ vô lượng Tâm (có lòng từ, bi, hỷ, xả) rất lớn.
  5. Thâm tín sâu nơi nhân quả (biết nhân nào, quả nấy nên không gây tạo thêm nhân xấu nữa.)
  6. Không hủy báng Kinh Phật và người tu theo Đại Thừa.
  7. Tu Bồ Tát hạnh (và tứ vô lượng tâm : Từ, Bi, Hỷ, Xả)
  8. Phát tâm Vô-Thượng Bồ Đề (thành Phật quả).
  9. Tu Lục Niệm (Niệm Phật, Niệm Pháp, Niệm Tăng, Niệm Giới, Niệm Thí và Niệm Thiên)
  10. Phát nguyện hồi hướng Tâm : Tức là phàm có bao nhiêu công đức lành, hoặc lớn hoặc nhỏ gì cũng đều phát nguyện hồi hướng vãng sanh về cõi Cực Lạc.

Mười cái tâm nêu trên bắt buộc phải có ở nơi hành giả tu Tịnh Độ, không thể nào thiếu được! Pháp môn Tịnh Độ là một pháp môn thẳng tắt, viên đốn nhất.

  • Viên : là trong một pháp gồm đủ các pháp
  • Đốn : là một đời tu, một đời vãng sanh

Thích hợp cho mọi căn cơ trình độ từ bậc thượng Thánh đến hạ Phàm đều có thể đồng nhau tu tập. Pháp môn này rất thích hợp cho Phật tử tu tập trong thời buổi Mạt Pháp nầy và mang lại lợi-ích lớn cho chúng sanh (nói chung) và chư Phật tử tu Tịnh Độ (nói riêng).

  1. Bởi lẽ nếu là một pháp môn tu thuộc về “nhỏ, thấp”… thì những bậc đại căn, đại cơ (như chư đại sĩ pháp thân Bồ Tát) không cần phải tu tập theo.
  2. Còn như nếu pháp môn tu thuộc về “cao, rộng”… thì bậc tiểu căn, tiểu cơ (như chúng ta đây) không thể nào dự phần nổi được.

Riêng  pháp môn Tịnh Độ thì:

  1. Bao trùm khắp hết cả ba căn Thượng, Trung, Hạ.
  2. Gồm thâu Lợi (căn), Độn (căn). Nghĩa là từ bậc có căn cơ tuyệt cao, tuyệt đại…như các Ngài Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Thế-Âm, Đại Thế Chí v.v….cũng không thể vượt ra ngoài pháp môn này
  3. Cho đến các hạng cực kỳ hèn kém như các kẻ tạo tội ngũ nghịch, thập-ác và có chủng tánh A Tỳ (địa ngục) cũng được dự phần

Pháp môn Tịnh Độ quảng đại như thế và phương cách tu chứng lại rất dễ dàng. Nếu như ai có được sức :

TÍN, NGUYỆN (sâu thiết).

Và :

  HÀNH TRÌ (kiên cố, chắc thật).

Thì dù cho có bị phạm vào trong những đại tội ngũ nghịch, thập ác, mà thành tâm sám hối, tha thiết Niệm Phật, khi sắp chết thấy tướng địa ngục hiện ra (như xe lửa, nhà lửa v.v…) mà gặp được thiện tri thức khuyên bảo Niệm Phật từ 10 câu đến 100 câu. Nếu người ấy chịu phát lòng tin, chắp tay dõng mãnh Niệm Phật (tự lực) y theo lời dạy, quyết định cũng được nương nhờ vào “sức tiếp dẫn” (tha lực) của Phật mà được “đới nghiệp vãng sanh.”

Chắc quý-vị cũng đã biết, pháp môn Tịnh độ lấy tôn chỉ :

“Một đời vãng sanh, được bất thối chuyển”  làm Tông.

Nếu giảng nói ra cho cặn kẽ về pháp môn này thì có thể nói cả hàng ngàn trang giấy cũng chưa hết. Trong khuôn khổ hạn hẹp của lá thư học phật, xin chỉ nhấn mạnh về phương cách Niệm Phật đúng pháp để bảo đảm được vãng sanh và sự hộ niệm đúng pháp mà thôi.

Pháp môn NIỆM PHẬT, quả thật là thích hợp với thời cơ, với bản hoài của chư Phật và đã âm thầm đi sâu vào tiềm thức của Phật tử Việt Nam. Không chỉ ở tại quê nhà mà ở khắp nơi hải ngoại, nơi nào có Phật giáo lưu hành đến, là nơi đó hầu hết hàng Phật tử đều biết niệm Phật.

Ngày trước Phật giáo ở Nhật Bản cũng có truyền thoại như sau:

  • Mật Tông và Thiên Thai Tông để cho hàng quý-phái.
  • Thiền Tông để cho hàng Võ-sĩ đạo.
  • Tịnh Độ Tông dành cho hàng bình dân, mà bình dân thì chiếm đa số người trong nước. Do đó, gần như cả nước đều xưng niệm danh hiệu Phật A DI ĐÀ.

Trong Kinh Đại Tập, đức Thế Tôn đã dạy rằng :

“Trong Mạt Pháp, ức ức người tu hành, ít có ai đắc đạo, chỉ nương theo pháp môn Niệm Phật mà thoát luân hồi”.

Trong Kinh Vô-Lượng Thọ Phật cũng có huyền ký rằng :

“Đời tương lai Kinh Phật diệt hết, Ta dùng lòng từ bi thương xót, riêng lưu trụ Kinh nầy trong khoảng một trăm năm. Nếu chúng sanh nào gặp Kinh nầy, tuỳ-ý sở nguyện, đều được đắc đạo”.

Bởi đời Mạt Pháp hiện nay, các Kinh Đại Thừa lần lần ẩn diệt, chúng sanh căn cơ đã yếu kém, ngoài câu Niệm Phật lại không biết pháp môn nào khác để tu trì. Cũng không biết tìm Minh sư ở nơi đâu để chỉ dạy đúng Pháp. Sống trong môi trường (chánh, tà lẫn lộn) hiện nay, sớm muộn gì cũng sẽ bị đoạ lạc trong 3 ác đạo (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh), khó mà thoát khỏi. Vì bởi việc lành thì khó tạo, điều ác thì lại dễ làm, tu hành theo chánh đạo thì khó, còn tu luyện theo tà đạo thì quá dễ dàng, giữ tâm trong sáng thanh tịnh thì quá khó, còn tâm đen tối mang đầy ấp vọng tưởng thì trong 100 người đều có đủ 100 người. Cho nên nếu không tin câu Niệm Phật mà tu hành, tất phải bị luân hồi trong 6 nẻo.

Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều chùa hoằng dương Tịnh Độ, mở Phật thất, mở đạo tràng, mở hội Niệm Phật, mở ban hộ niệm vãng sanh v.v… Song xét ra, số người tham gia đạo tràng Niệm Phật tuy đông nhiều, khắp mọi nhà … mà số người không rõ mục đích của sự trì-niệm cũng chẳng ít, cũng không hiểu thế nào là Niệm Phật đúng pháp để bảo đảm được sự vãng sanh.

Đa phần là thấy người khác niệm Phật cũng bắt chước niệm theo, mà hoàn toàn không hiểu thấu và không chủ định. Có những vị niệm Phật nguyện cho tiêu tai khỏi nạn, cầu cho gia đình, con cháu khoẻ mạnh, bình an, học hành giỏi giắn, công ăn việc làm may mắn và sở cầu như-ý v.v…

Người tu Tịnh Độ mà có tâm nguyện cầu những điều trên thì không được vãng sanh, vì không đúng với bản hoài của Phật.

Dù có người nhất tâm, chí-thành Niệm Phật nhiều cách mấy đi nữa, mà chỉ cầu được vãng sanh Cực Lạc, cũng không hạp với bản hoài của Phật và chưa chắc được vãng sanh !

Tại sao vậy ‌

Vì ngoài miệng tuy có Niệm Phật, trong tâm cũng muốn được vãng sanh, nhưng không có đầy đủ 10 cái Hạnh (như đã nêu ở trên). Cho nên dù tu hành cả đời, mà vẫn chưa chứng đạo, nếu còn nghiệp lực, dù nhỏ như tơ hào cũng bị luân hồi trong 6 nẻo.

Nếu như có được vài vị ngộ đạo, hiểu đạo, đọc sách học thuộc lòng không sai một chữ, hoặc văn hay xuống bút thành phú, mở miệng thành thơ v.v… nhưng không thật tâm “giác ngộ” lời Phật, ý Tổ muốn dạy; nên tu hành đôi khi còn trở lại phỉ báng đạo Phật, khinh sư diệt tổ, chưa chứng đạo đã bị thối thất tâm, tu hoài mà vẫn không phân biệt được đâu chánh đâu tà. Cho nên phải theo nghiệp lực mà chuyển lại kiếp sau rồi cũng lại tiếp tục “đa văn”, lung lạc trong 6 nẻo luân hồi biết chừng nào mới giải thoát được.

Đúng như lời Phật huyền ký :

“Đời mạt pháp ức ức người tu hành (niệm Phật, Thiền, tụng Kinh, trì Chú v.v….) song không có ai đắc đạo.”

Hoặc,

“Số người tu hành ngày nay nhiều như lông trâu, mà người chứng đắc ví như sừng thỏ vậy.”

Vì vậy mà chúng ta, đã mang danh là Phật tử (tại gia hay xuất gia), cần phải nhất tâm chân thật tu hành cần cầu giải thoát.

Một hành giả tu theo pháp môn Tịnh Độ một cách chân chánh đúng pháp thì cần phải luôn thực hành những điều then chốt sau đây:

  1. Bên ngoài thì hành trì cái sự tướng (niệm Phật, trì Chú, tụng Kinh) cho chuyên cần.
  2. Bên trong (tâm) cũng phải sửa tánh cho hợp với lời của chư Phật, chư Đại Bồ Tát, chư Tổ sư dạy bảo.
  3. Phải luôn nhớ tới cái “phát Tâm” Bồ Đề từ thuở ban đầu mới bước chân vào cửa đạo, và cho suốt cả cuộc đời tu tập, đừng có phản ngược lại cái “lập tâm” tốt đẹp cao cả (trên cầu thành Phật, dưới cứu độ chúng sanh) ban đầu của mình.

Nghĩa là :

  • Chớ chạy theo hình thức của thế gian.
  • Chớ say đắm nẻo lợi danh.
  • Chớ chuộng địa vị quyền hành.
  • Chớ khoe thông minh tài giỏi.
  • Chớ nghe theo lời nịnh xiểm.

Tổ sư dạy cho chúng ta :

“Người chân thật tu hành chớ chạy theo hình thức bề ngoài, mà phải chú trọng vào cái “Tâm”. Bởi vì Phật chuộng “Tâm” chớ không chuộng “Tướng”.  Tất cả vạn vật được cấu tạo trên thế gian đều do cái “Tâm” (thiện, ác) của chúng sanh mà thành. “Siêu, Đọa” cũng từ nơi cái “Tâm” (chánh, tà) mà có”.

Phật cũng đã nhắc đi nhắc lại hoài NHỨT THIẾT DUY TÂM TẠO hoặc VẠN PHÁP DUY TÂM. Có được bao nhiêu người thấu hiểu, ngược lại còn trở lại trách mắng Trời, Phật sao không từ bi cứu độ chúng sanh đang trong khổ nạn hiện nay !

  • Tại sao không tự trách mắng chính mình ‌
  • Làm sao lại biết Trời, Phật, Bồ Tát không cứu độ chúng sanh ‌
  • Hay tại vì chúng ta suy bụng mình ra bụng chư Phật, Bồ Tát ư !
  • Hay tại vì chúng ta không thật tâm tu sửa, không thật tâm thực hành đúng như Pháp ‌
  • Hay tại vì Tâm của chúng ta quá ÁC nên mới chiêu cảm những “quả” ác ‌

Đừng để cho lâm vào trong cảnh :

Thân tuy nương náu chốn am thiền, mà Tâm cứ mơ tưởng hoài nơi các sự lợi danh trần thế (sắc, tài, ngũ dục, lục trần) ngày càng tham ái, càng nóng giận, càng si mê, sanh nhiều tật đố, quên hết sự “lập tâm” trong sạch từ thuở ban đầu mới bước chân vào cửa đạo…

Vì thế, tuy trên thân còn đang khoác chiếc áo nhà Phật, miệng luôn niệm Phật mà càng ngày cái “Tâm Phật” đó càng xa cách thêm với Đạo, mà không hề hay biết. Ắt sẽ uổng phí đi cả một đời tu hành khổ nhọc, mà chẳng thâu được chút kết quả chi nơi đạo quả vãng sanh giải thoát sanh tử.

Đa số người tu Tịnh Độ chúng ta cũng có học pháp, có nghe giảng pháp, nhưng chỉ có NGỘ (cái lý) mà không có GIÁC.

Như trong Kinh Lăng Nghiêm, ngài A Nan vì chúng sanh chúng ta mà thưa lên Phật lời rằng :

“Bạch Thế Tôn, ngay trong khi nghe pháp, con tưởng chừng như mình đã NGỘ. Còn khi đối cảnh thì trở lại thành MÊ, thoạt lạnh, thoạt nóng, tựa như người bị sốt rét cách nhật thâm niên. Khi được Phật khai ngộ thì Tâm của con in tuồng như là được giải thoát, mà đến khi bị nhập vào trong trần lao rồi, thì thấy vẫn còn bị trói buộc y như cũ…”

Ngài A Nan có nói thêm :

“Bạch Thế Tôn, nay con mới biết, tuy là có nghe nhiều, hiểu rộng, nhưng nếu không thực hành đúng theo những lời Phật dạy, thì cái nghe, cái hiểu đó cũng đồng như không nghe mà thôi.”

Thử hỏi, những người có nghe Pháp, hiểu Pháp mà không thực hành được, thì cũng như là không nghe. Huống hồ chi những kẻ chưa từng nghe giảng Pháp, chưa từng được học Pháp, thì còn tệ hại đến như thế nào‌

Cho nên, việc tu hành của chúng ta rất dễ bị chùng bước – 1 ngày tu, nhưng tới 9, 10 ngày không. Hễ được nhắc thì ngồi tu được một chút, còn không được nhắc nhở thì thân và tâm chạy đi 4 phương 8 hướng. Chúng ta cần phải siêng gần gũi với Minh sư, bạn đạo, để được sách tấn, nhắc nhở, được Minh sư chỉ những cái sai để sửa và nương theo đó lập tâm dũng mãnh tu hành.

Bởi vì các bậc Thánh Nhơn một khi đã “Ngộ” rồi thì họ sẽ “Giác”.

Còn con người chúng ta, tuy có nghe Pháp (cái lý) thật nhiều, có hiểu (ngộ cái LÝ), nhưng không có thường nhớ (cái SỰ), không có thường “tư duy” bao nhiêu, lại không thực hành đúng y như Pháp, thì sẽ không có “giác” được (tức là không đạt được quả chứng đắc).

Giờ chúng ta quán lại cái TÂM của mình – qua lời Phật dạy, mình sẽ thấy biết rõ rằng :

Cái “thiện” và cái “ác” trong phàm tâm của mình đều có đủ. Cái tâm ác gồm có 30 món tùy phiền não. Cái tâm thiện chỉ có 11 món thiện tâm sở. Chúng ta đã thấy rõ ràng – cái tâm xấu ác nó nhiều gấp 2, 3 lần cái tâm thiện của mình. Cho nên khi mình làm những điều xấu ác, thì rất tinh tấn dõng mãnh làm, còn khi làm những việc thiện thì yếu ớt và sợ sệt.

Trong luận, Tổ sư có dạy rằng :

  • Người thế gian trong lúc làm tội, thì ôm lòng độc-ác, mạnh mẽ, nóng nảy (dữ tợn), giận hờn, gắt gao, nếu như giận tức một người nào thì tâm quyết muốn cho người ấy chết.
  • Còn ghét người nào, thì dầu cho người đó có làm lành tốt cho cách mấy cũng không ưa nhìn.
  • Còn nếu hủy báng một người nào, thì nói những lời ác độc, đâm thọc sau lưng, rỉ tai nhau để cô-lập người ta, ép buộc người ta phải thối chí mà bỏ đạo thì họ mới vui lòng.
  • Nếu đánh một người nào, thì quyết khiến cho người ấy đau đớn thấu trời thấu đất.
  • Khi giận tức tàn bạo, thì bất kể tôn ty, thượng hạ, dùng lời xấu xa mắng nhiếc đủ điều, có khi la lớn như sấm dậy, mặt mắt như đổ lửa.
  • Còn khi làm, làm lành, thì thiện tâm (ý) rất là sợ sệt, bạc nhược, yếu hèn.
  • Lúc đầu thì muốn làm công quả cho nhiều, đi nhiều chùa, tu hành siêng năng, nghe giảng Kinh Pháp thật nhiều, sau đó dần dần giảm ít lại, rồi từ từ sợ tu, sợ học Pháp, nhất là sợ đến những nơi có trì Chú của Phật gia.
  • Lúc đầu thì muốn thành Phật, thành Tổ ngay. Rồi sau đó lại thả lỏng, buông trôi. Tâm đã không chí quyết làm thiện, tu hành, rồi ngày tháng trôi qua, lần lượt tới lui cho đến khi quên mất việc thiện, việc tu hành.

Như vậy nếu chúng ta đem cái Nhân làm Phước, làm Thiện, tu hành yếu kém ấy để mong cầu tránh được quả báo ác mãnh liệt kiên cường kia, thì ắt nhiên là không thể được.

Hoặc là đem cái tâm “xấu ác, sân giận” kia mà tu hành, lễ bái, tụng Kinh, niệm Phật, nghe pháp, làm việc lành, cùng với cái Tâm “yếu đuối không mãnh liệt” của mình đang có mà cầu được vãng sanh về Cực Lạc, thì chắc chắn là không đạt được kết quả.

Nói tóm lại, người tu trong thời buổi hiện nay, có tâm tham-ác thì nhiều vô-số, còn người có thiện tâm, thiện chí thật sự muốn cầu vãng sanh giải thoát thì thật là ít ỏi.

Người mà giữ được cái tâm bền vững, không thối chuyển trước mọi sự cám dỗ, với bao hoàn cảnh (trái ngang, nghèo, khổ, chịu nhịn, chịu nhục, chịu đánh, chịu đập, chịu bao điều oan ức v.v…), vẫn can cường tiến bước, thì thật là khó kiếm, huống chi gặp được bậc Chân Sư ư !

Tổ sư dạy rằng :

“Ngặt vì nỗi lòng người tuy dễ tinh tấn, song cũng dễ thối lui. Khi có người khuyên bảo, thì dõng mãnh siêng năng. Lúc gặp việc chi chướng ngại, lại giải đãi, ngả theo hướng khác liền”.

Có Phật tử hỏi Bảo Đăng :

  • Làm sao giữ tâm mình không bị thối chuyển, niệm Phật luôn được nhất tâm‌
  • Phương cách Hộ Niệm đúng pháp như thế nào mới hạp với người thời nay ‌ 

ĐÁP :

Như trên đã có nói, muốn giữ được cái tâm “thiện” kiên cố.

  1. Phải xa bạn ác, không chạy theo hình tướng bề ngoài, không mong cầu lợi danh, không nghe theo những lời “nịnh xiểm” trên đầu môi chót lưỡi, đâm thọc 2 chiều, nói lời xấu ác sau lưng người (tốt) mà có ơn rất lớn đối với mình (phải biết ơn và biết báo ơn).
    Người xưa thường có câu :

    “Người hiền thì không nói ra lời ác, mà đã nói ra lời xấu ác rồi thì là người không hiền !” 

  2. Phải biết lỗi trước, biết sám hối, biết chừa bỏ những lỗi lầm, sai trái gây ra từ nơi thân, khẩu, ý.
  3. Phải chặc dạ, chân thật nghe lời Minh sư chỉ dạy, đúng y như Pháp mà nhất tâm tu tập. Đừng bao giờ bỏ lời Thầy mà lấy lời bạn.
  4. Y theo lời Phật dạy :
                “Người tu hành, làm Phật sự chân chánh  khuyến dắt người tu niệm, thì luôn luôn là kẻ thù của Ma và của những người tà ác”.

(Bởi vì, hễ mình càng khuyến khích người tu niệm bao nhiêu, tức là chống đối với Ma, Tà bấy nhiêu. Vì người nào cũng y theo mình mà tu tập sẽ được sanh về cõi Trời, cõi Phật hết, thì thế giới Ma nó phải trống rỗng. Còn tổn hữu ác đảng càng ngày nó càng mất thêm bạn, cho nên Ma (chết) xui khiến cho cái phần dương ma (tức là tổn hữu, ác đảng, người có tâm xấu ác) nó thù ghét mình).

Trong Kinh Đại Bảo Tích Phật có dạy :

“Làm việc Phật sự chân chánh là tranh loạn với thế gian”.

Trong Kinh Pháp Cú cũng dạy :

“Như một ngọn núi cao đứng giữa cơn giông tố,
Người chân chánh an nhiên giữa tiếng thị phi”.

Cho nên, muốn niệm Phật được nhất tâm:

 Phải buông xả việc đời,
Chi phải mà chi quấy,
Chẳng hèn cũng chẳng cao,
Việc đúng phải cùng sai,
Giận hờn thêm mệt dạ,
Thương ghét chẳng để lòng,
Phải chuyên tâm trì-chú.
Tinh tấn tu sửa tánh,
Bền chặt một câu Phật,
Cực Lạc về được ngay.

Cho dù người tu có bị sai lạc, nhưng cái Đạo lúc nào cũng là con đường sáng tỏ, soi sáng cho chúng ta bước lên những nấc thang tốt đẹp hơn cho chính bản thân mình. Vì vậy chúng ta cần phải sáng suốt nhận định nội tâm của mình, đừng để cho cái buồn, cái nản, cái chán, cái khổ, sự thất vọng và bất mãn, làm cho mình thối tâm tu hành.

Đa phần người tu hay bị vấp ngã trên con đường tu tập của mình vì ban đầu học đạo rất siêng cần, sau rồi lại biếng lười, nên bị 30 món tùy phiền não khảo đảo (nó biến ra thành Nội ma). Mà hễ bên trong (tâm) bị Nội khảo rồi, thì mấy ông Ma bên ngoài mới thừa cơ hội tiếp tay vô liền (người xuất gia hay  tại gia cũng đều bị vấp phải) mà họ không ý-thức được. Đây gọi là “nội ứng, ngoại hiệp”.

Còn nếu như trong tâm mình trước sau như một, luôn giữ một lòng thanh tịnh, bất chấp tiếng thị phi, thì cái ngoại Ma bên ngoài không có kẽ hở nào để xâm nhập, thì làm gì bị khảo đảo. Cho nên chúng ta cần nên biết:

Nội bất “ứng” thì ngoại bất “hiệp.”

Nếu có được cái Tâm kể trên, thì tạm gọi là tâm “trong sáng.”

Cho nên :

Việc đời thấy vậy thì hay vậy,
Đóng cửa cài then chẳng dám nghe.
Ai khôn thì nhờ,
Ai dại thì sa.
Đêm nằm thấy Phật Thích Ca,
Không tu sẽ thấy quỷ, ma hiện tiền.
Trì Chú rồi thấy hiển linh,
Đánh cho một cái quỷ tinh mất liền.
Giựt mình tỉnh dậy thấy không,
Từ đây con sẽ gắng công tu trì.
Ba chữ vỏn vẹn tổng trì.
( Um brum hùm, hoặc Tha la na).

HỎI :

Thế nào là NIỆM PHẬT đúng pháp, để bảo đảm được vãng sanh ‌

ĐÁP:

Quý-vị đã từng nghe giảng nhiều về Pháp môn Niệm Phật rồi cũng đã và đang niệm danh hiệu Phật. Có người niệm Phật mỗi ngày 3, 4 thời khoá. Có vị đi đứng không rời câu Phật danh. Có vị nhập thất 1, 2  hoặc 3 tháng chỉ chuyên niệm Phật. Thật là quý vô cùng! Song kiểm kê lại cho thật kỹ về “tâm tánh” của người niệm Phật hiện nay, thì cũng vẫn chưa đủ điểm để vào được “Phật trường của đức A DI ĐÀ”, nói chi đến được “trạm chờ vãng sanh” !  Số người tham dự niệm Phật thì thật rất đông, nhưng có mấy người được Bồ Tát tuyển chọn ‌

Bảo Đăng xin lần lượt giải ra hầu giúp cho Phật tử đang tu Tịnh Độ được tỏ tường hơn, để bảo đảm cho việc vãng sanh của mình:

Bắt đầu năm 1985, Bảo Đăng may mắn được Thầy Bổn sư Thích Hải Quang chỉ dạy cho phương cách Mật Tịnh song tu, mới hiểu ra rằng :

  1. Cái thân Người thì khó được
  2. Còn Tịnh Độ thì dễ tới

Tại sao thân người khó được ‌ ?

Bởi vì nếu mình muốn được cái thân người, thì phải giữ gìn 5 giới căn bản. Còn như không giữ được 5 giới thì giết mất cái thân người. Huống chi bây giờ chúng ta sống trong thời kỳ đấu tranh kiên cố, tâm của con người ngày càng ác độc, sân si, thì khó mà người giữ trọn được 5 giới. Lại cũng thường hay chấp trước, kiêu căng, ngã-mạn, khinh sư, diệt tổ, chẳng chịu tu sửa (thân tâm). Chánh nói tà, tà nói chánh, không phân biệt được rõ-ràng, tâm trí thường điên đảo.

Cho nên nhiều người TU, nhưng đa số bị đoạ trong 3 ác đạo, ít có ai được vãng sanh Cực Lạc.

Vì thế Tổ sư đã nói :

  • Thân người khó được (vì khó giữ được 5 giới, và đánh mất cái “nhân đạo” (nghĩa là không trọn  đạo làm người).
  • Chánh pháp càng khó được nghe (vì tâm không chánh, nên khó được nghe chánh pháp của nhà Phật, thí-dụ như có người “chuyên Niệm Phật, cầu được về cõi Phật”, duyên may cầm được cuốn Kinh sách của Phật dạy trên tay, thì lắc đầu trả lại nói rằng : không muốn đọc)!
  • Minh sư khó gặp vô cùng (trong thời mạt pháp hiện nay, tâm chúng sanh ngày càng hiểm ác, khó giáo hóa, lại tham cầu cái giả tướng, cho nên Minh sư, Tổ sư đều ẩn dật và lần lượt viên tịch hết cả. Vì tâm người thời nay thường bất chánh, nên khó mà gặp được Minh sư. Mà nếu may mắn gặp và được diện kiến Bồ Tát, Tổ sư, Minh sư thì họ cũng không nhận diện ra, mà còn trề nhún khinh rẻ, phỉ báng, chê-bai và chỉ trích nữa). 

Còn nói Tịnh Độ dễ tới là như thế này:

Trong Kinh Vô Lượng Thọ có dạy :

“Dầu cho kẻ phạm tội ngũ nghịch, thập ác, đáng đọa vào địa ngục A Tỳ, đến khi sắp chết, tướng địa ngục hiện ra – mà chân thật, chí-thành, dõng mãnh dốc hết tâm thức ra mà niệm Phật từ 10 câu đến 100 câu, cũng được vãng sanh”.

Giả sử như một người chưa chắc gì giữ 5 giới được trọn vẹn (có nghĩa là : có thể phạm 1 giới, 2 hoặc 3 giới không chừng).

Nhưng đối với người đó, nghe được danh hiệu của Phật A DI ĐÀ, rồi hết lòng “tin” tưởng, buông bỏ muôn duyên, quyết một lòng xưng niệm danh hiệu của Phật A DI ĐÀ không thối chuyển, và “nguyện” tha thiết mong cầu được vãng sanh Cực Lạc.

Dù cho người đó có phạm đủ 5 giới, gây ra nhiều tội nghiệp, mà biết thành tâm sám hối thì Phật cũng cứu. Đến giờ lâm chung được Tây Phương Thánh Chúng, mỗi vị đều dùng sức hạnh nguyện của mình hiện thân đến chỗ của người đó dìu dắt tiếp dẫn. Thì người đó dù cho tội nghiệp chưa trừ hết, cũng mang luôn cái nghiệp còn lại của mình mà vãng sanh về Cực Lạc quốc.

Huống chi có người suốt đời làm lành (không thị phi, không nhân, ngã), ăn chay, giữ giới, niệm Phật, phát lòng Bồ Đề, giữ Tín, Nguyện sâu mà không được vãng sanh sao ‌

Vả lại,

Nếu niệm Phật với cái tâm “trong sáng” đó, thì một câu A DI ĐÀ PHẬT cũng tiêu được tội trong 80 ức kiếp sanh tử. Hơn nữa nếu giữ tâm không tán “loạn” (nhứt tâm không có vọng niệm xen vào mỗi khi niệm Phật) thì dù chỉ 10 niệm cũng được vãng sanh.

Cho nên Tịnh Độ dễ sanh về là như vậy!

Chúng ta thấy pháp môn Tịnh Độ là một pháp môn tu rất thẳng tắt, thiết thực, giúp người hành trì đạt được sở nguyện vãng sanh trong một kiếp người để rồi có thể tu thành Phật ở tương lai, cứu độ vô số chúng sanh. Pháp môn tu thù-thắng như vậy, thế mà ít ai chịu tin nhận để tu theo, thì thật uổng cho một kiếp làm người sanh ra trên dương thế…!

Cũng vì thấy được sự lợi-ích to lớn của pháp môn Tịnh Độ mà Bảo Đăng luôn giữ “TÍN, NGUYỆN, HẠNH” niệm Phật, dốc hết tâm thành mà làm Phật sự, giúp người người có đủ phương tiện để tu hành, cầu sanh Cực Lạc, cương quyết không tạp tu (nay tụng Kinh nầy, mai tụng Kinh khác, hoặc nay tu theo pháp môn nầy, mai tu theo pháp môn khác, lang thang chạy tìm cầu pháp chỗ nầy, mai chạy tìm cầu pháp chỗ nọ v.v… như vậy suốt một đời). 

Đến năm 1992, Bảo Đăng nhận được bức thư, có bài THẬP NHỊ DANH NHƯ LAI LỄ SÁM DIỆT TỘI, và các bài Chú của Sư Tổ Đại Ninh THÍCH THIỀN TÂM gởi qua cho Thầy bổn sư Thích Hải Quang, Ngài có dạy rằng:

“Ngày xưa tâm tánh con người đa phần hiền lành, thật thà, chất phác, nên Tổ sư đã khuyên dạy rằng :

“Chỉ nên chuyên nhất niệm một câu Phật (mà không niệm tạp) mới bảo đảm được vãng sanh”.

Nhưng, trong thời mạt pháp, ngày nay tâm tánh con người ngày càng ác hiểm, tham chấp lợi danh, sân si lẫy lừng, lại còn tiếp tay với kẻ ác (nghĩa là xác người tâm quỷ) giết hại những bậc tu hành chân chánh, tự mình giết bản thân và còn lấp con đường về cõi Người, và cõi Cực Lạc của vô số Phật tử.

Vì lòng từ bi thương Phật tử đang sống trong Ma nạn dẫy đầy khắp nơi, nên Ngài (Vô-Nhất Đại Sư) đã soạn ra nhiều loại “Thần Chú”, hầu cứu giúp người tu đang niệm Phật được an lành, không bị khảo đảo (của ma nạn, của tà nhơn) trên con đường giải thoát còn đầy chông gai và ác hiểm”.

Từ đó, trên Thầy Bổn sư THÍCH HẢI QUANG, dưới hàng đệ tử, thêm phần “Sám hối” cho mỗi khóa tu (giúp gột rửa những lỗi lầm đã gây tạo do Thân, Khẩu, Ý) và kiêm thêm phần “Trì-Chú” nhiều hơn để bảo hộ thân tâm không bị “nội ma, ngoại ma” khảo đảo, mà mất đi Phật tánh. Nhờ biết về sự lợi-ích và công năng của việc Trì-Chú mà Pháp Hoa Tự từ đó hoằng dương pháp môn Mật Tịnh (Mật Tông Tịnh Độ song tu) hầu giúp những người hữu duyên biết cách tu đúng pháp mà được yên ổn trên con đường tu tập. Cho nên trong cuốn Thập Nhị Danh Lễ Sám sau nầy, có phổ cập thêm phần chỉ dẫn phương cách Ấn Chú đúng pháp cho Phật tử khắp nơi có duyên biết đến để tu tập.

Hai chữ MẬT TỊNH trên có hàm ý là :

  • Người tu phải TRÌ-CHÚ (Mật) trước, rồi NIỆM PHẬT (Tịnh) sau.
  • Phải tạo ra cái LỰC trước (để giúp cho thân tâm nhẹ nhàng, khẩu thanh tịnh, ý trong sáng, kiết giới trước để khỏi bị phá), khi NIỆM PHẬT thì mới trọn vẹn công đức, cái LỰC đó mới đưa chúng ta vãng sanh được. Vậy mới đúng pháp tu tập của Tổ Sư chỉ dạy.

Cho nên công năng của Thần Chú diệu dụng không thể nghĩ bàn. Một khi trì Chú đến mức “nhập tâm” rồi, thì sẽ phát ra được một “TÂM LỰC” thật “trong sáng.” Từ nơi cái tâm “trong sáng” đó, mới bắt đầu chuyển sang Niệm Phật, công năng niệm Phật sẽ tự phát ra một “thần lực” tương ứng với “thần lực” của Chú, mới có khả năng đưa chúng sanh ra khỏi 6 nẻo luân hồi, mới cứu độ được mình và “hộ niệm” cứu độ cho người khác, và cứu độ cho tất cả vong linh cũng đều được siêu thoát một cách dễ dàng.

Vì muốn cứu độ cho vong linh (người chết) phải có “Oai Đức thần” của Phật.

ĐỨC TRỌNG QUỶ THẦN KINH.

(Nghĩa là người có đầy đủ cái OAI (của thần Chú), cái ĐỨC TÂM lớn, thì Quỷ, Thần cũng phải kinh hồn, nể sợ).

Người có đầy đủ “Oai Đức”, đầy đủ “Tâm lực, Thần lực, Trí lực” và có “kinh nghiệm” mới biết dùng thiện xảo phương tiện cho mọi hoàn cảnh.

Nghiệp lực của mỗi người đều khác nhau; có người gieo nghiệp nhẹ trong quá-khứ, cuộc sống của kiếp nầy cũng không tạo điều gì ác, lại còn biết Niệm Phật tu hành, và biết gần gũi với Minh sư, thiện hữu, cho nên phút lâm chung sẽ không gặp trở ngại, có thể hộ niệm bằng câu Phật hiệu được, không cần thiết phải Trì-Chú. Còn nếu như gặp những người nghiệp quá nặng nề, kiếp nầy lại còn tạo thêm nhiều điều xấu ác, giao kết với tổn hữu ác đảng, bất hiếu với cha mẹ v.v… chưa hề biết niệm Phật là gì, lại còn bị thêm “vong ma” dựa nhập nữa, thì không thể thuần niệm Phật cho họ nghe được (vì họ chưa từng kết duyên với Tịnh Độ), không thể giúp cho tâm thần họ trong sáng được, nên cần phải Sám hối và Trì-Chú trước để giúp gột rửa bớt tội lỗi của họ.

Cho nên, có nhiều người thấy Bảo Đăng thường Sám hối và Trì-Chú trước để giúp cho tâm thần họ được trong sáng, nhẹ nhàng, tiêu bớt tội nghiệp, chịu buông bỏ mọi ràng buộc, rồi mới niệm Phật hộ niệm tiếp dẫn, là như vậy.

Đa phần người Niệm Phật cầu về Cực Lạc, mà lại không biết rõ “tại sao phải cầu về Cực Lạc mà không cầu về cõi của những đức Phật khác, niệm Phật A Di Đà mà không niệm các đức Phật khác ‌

Ở Cực Lạc có gì vui hơn ở cõi Trần không ‌ Nghĩa là tuy ngoài miệng niệm Phật, nhưng trong tâm vẫn mãi ôm ấp những cái vui hiện có ở cõi nầy, không muốn xả bỏ ! Cho nên trong tâm thức của những người đang niệm Phật đó, khi sắp lâm chung, sẽ không tha thiết muốn về Cực Lạc ! Vậy, nếu ban hộ niệm ngồi suốt ngày niệm Phật, cầu giùm cho người nầy vãng sanhhọ có được vãng sanh không ‌  Họ có được Thánh Chúng (ở Cực Lạc) tới rước không ‌

Người tu Tịnh Độ cần phải hiểu thêm rằng :

  1. Những người đang niệm Phật phải có “nguyện lực” lớn mạnh, có đầy đủ “Tín, Nguyện, Hạnh”, và phải có được “tứ vô-lượng Tâm” (từ, bi, hỷ, xả) rất lớn.
  2. Lại chán ngán con người (sao quá gian ác), chán con, chán cháu (bất hiếu, vô đạo), cuộc sống con người ngày càng mất hết “Thánh đạo.” Trong tâm hành giả không còn muốn trở lại cõi ngũ trược nầy nữa, chỉ còn một cái Tâm cực mạnh tha thiết muốn sanh về cõi Cực Lạc, nên ngày đêm chí-tâm niệm Phật bất kể đến thế sự (nhà cửa, tiền của, cháu con, việc vừa ý hay không vừa ý, việc phải cùng sai v.v…). Khi lâm chung mới được Tây Phương Tam Thánh tới tiếp dẫn vãng sanh về cõi Cực Lạc.
  3. Còn những người niệm Phật lai rai (sáng tu, chiều đi khắp xứ thị phi, lại có tâm tham, chấp nhân, chấp ngã, phải quấy, thấp cao, đào xới lỗi người, sân si lẫy lừng, chửi mắng người không tiếc lời), miệng niệm Phật mà Tâm tán loạn. Khi lâm chung may mắn được hộ niệm đúng pháp về tới Cực Lạc, liệu người đó có chịu vô Cực lạc không, hay còn nhớ vợ, nhớ chồng, nhớ con cháu, nhớ thị phi, và nhớ cõi trần đầy trụy lạc ưa thích… mà lén tuột xuống cõi trần lại ‌
  4. Những người niệm Phật mà có những cái Tâm “nghi ngờ” về pháp môn Tịnh Độ, lại còn nghi ngờ pháp nầy đúng, pháp kia sai, nhất là phỉ báng pháp môn Mật tông v.v… nên không mấy tha thiết nguyện cầu vãng sanh; nhưng nhờ gần gũi với Thiện hữu, phút lâm chung được hộ Niệm, người nầy chỉ được về cõi Trời mà thôi.
  5. Nếu như may mắn nữa, thì chỉ được tới biên địa. (nghĩa là chưa vô được chánh quốc, còn ở ngoài biên giới của Cực Lạc, mỗi ngày có Bồ Tát ra thuyết pháp, chỉ dẫn Niệm Phật như vậy 500 năm, nếu cái tâm vẫn không đủ nguyện lực vãng sanh, sẽ trở xuống cõi Ta Bà, lặn ngụp trong 6 nẻo luân hồi trở lại để trả nghiệp).

Để chứng minh cho điều nầy, Bảo Đăng xin kể ra đây một chuyện hiển linh khó tin nhưng có thật :

Thời gian gần đây, Bảo Đăng có hộ niệm cho một vài Phật tử được vãng sanh. Trong số đó có một người mà Bảo Đăng chưa chắc chắn là người ấy được về Cực Lạc hay không‌ Như thông lệ, sau khi tu xong, Bảo Đăng có cầu lên đức Quán Thế Âm Bồ Tát, xin Ngài cho biết người nầy có thật được về Cực Lạc chưa, hay còn ở cõi nầy ‌

(Phụ giải :

Chắc qúy Phật tử thắc mắc, tại sao Bảo Đăng thường hay cầu lên đức QUÁN THẾ-ÂM Bồ Tát và luôn được “cảm ứng” với Ngài. Qúy vị đã có đọc qua quyển Hồi Ký Phật Sự rồi, cũng biết lúc Bảo Đăng được 6 tuổi, cha ở tù oan, mẹ vì uất ức mà chết sớm, bỏ lại 5 đứa con còn nhỏ dại. Lúc đó chỉ có một thân một mình thay quyền mẹ cha mà nuôi mấy đứa em, vừa sợ ma, vừa sợ bóng tối. Không biết cầu đến ai, nên bắt đầu từ đó Bảo Đăng thường thấy đức Quán Thế-Âm Bồ Tát đến trong mơ, an ủi và dạy dỗ cho Bảo Đăng những điều hay lẽ thật. Thành thói quen, hễ có cái gì thắc mắc, không ổn, đều khởi tâm tha thiết cầu đến Bồ Tát là ngài hiển linh giải tỏ liền.

Sau khi lập gia đình qua tới Mỹ (năm 1975), cũng lại một thân một mình, không bạn bè chi cả, mỗi khi gặp nạn, hay bệnh hoạn, Bảo Đăng tha thiết cầu nguyện đến đức QUÁN THẾ ÂM Bồ Tát, Ngài vẫn thường xuyên đến chỉ dạy và giải nạn cho.

Đến khi thành lập chùa Pháp Hoa (vào năm 1985), gặp phải biết bao điều khổ, khó khăn và cô đơn nhất khi phải sửa lại toàn diện ngôi chùa mục nát mà không có Thầy đứng ra chỉ dẫn (vì Thầy đã nhập thất ẩn tu xa), cho nên chỉ biết cầu đến Bồ Tát chỉ dạy mà thôi, và luôn được Ngài cứu giải cho Bảo Đăng rất nhiều nạn tai, mọi việc đều được sở cầu như ý. Vì vậy mà Bảo Đăng chỉ tin nơi Đức Mẹ hiền Quán Thế Âm, ngoài ra không dám tin tưởng vào một ai khác cả.)

Đêm đó, Bảo Đăng nằm mơ, thấy mình đi tới Nam Hải gặp đức Quán Thế Âm Bồ Tát, trong lòng đang mừng mừng tủi tủi như lâu ngày được trở về thăm nhà vậy, có hỏi Ngài về việc hộ niệm cho một người mới đây, Bồ Tát rày và dạy rằng :

“Ngươi tưởng Cực Lạc dễ về lắm sao ‌ Ngươi đi hộ niệm giúp người ta vãng sanh, nhưng đâu phải ai niệm Phật cũng đều có tâm “tha thiết” cầu sanh về Cực Lạc đâu ! Cõi Cực Lạc không phải ai muốn vô, muốn ra tùy tiện được ! Ngươi có biết rằng, trong số người mà được ngươi hộ niệm, có một người đã được vô Cực Lạc rồi nhưng tự tay mở cửa để xuống lại cõi trần nầy không‌”

Bảo Đăng chưa hiểu nên cúi lạy, hỏi ngay rằng :

Bạch Bồ Tát, nếu như trong tâm người đó vẫn còn vương vấn, bịn rịn, hoặc nghiệp lực lôi kéo, thì không thể nào vãng sanh được cả. Tại sao người nầy được vãng sanh rồi mà còn muốn trở xuống ‌ Cúi xin Bồ Tát dạy cho con hiểu.”

Bồ Tát dạy rằng :

 “Đáng lý ra người nầy chưa đủ hạnh, chưa đủ công đức, và chưa đủ nguyện lực để được về đâu. Nhưng vì tâm của ngươi chí thành, lại chuyên trì-Chú khi hộ niệm, nên Thần lực của ngươi đã phát ra hào quang quá sáng, và ngươi còn dặn dò họ rằng:

 “Khi nào thấy ánh sáng chiếu đến là đi theo ánh sáng đó nghe”!

 Nên khi người đó thấy hào quang sáng chói, chỉ biết theo ánh sáng đó mà đi thôi, chứ họ không có “tự lực” đi được. Họ lại không có “nguyện lực” cầu vãng sanh, cũng không có “tâm lực” để được sanh về Cực Lạc chi cả. Cho nên họ không được Thánh Chúng đến tiếp dẫn !

Khi tới Cực Lạc họ không được vào chánh quốc, vì không đủ điều kiện để được vào “Liên Trì Hải Hội”, đừng nói chi là được “nhập Liên Hoa” (tức nhập vào trong 9 phẩm sen). Cho nên, đa phần đều phải ở “biên địa” (bên ngoài cửa Cực Lạc) để Niệm Phật tiếp cho đầy đủ công đức. Riêng người nầy vẫn còn nhớ cha mẹ, nhớ chồng con, tâm lại không “tha thiết” niệm Phật, không hiểu pháp môn Tịnh Độ là gì cả, nên đã tự mở cửa Cực Lạc mà trở xuống lại cõi nầy. Mai nầy phải tiếp tục đi đầu thai lại, tiếp tục trả nghiệp…!

Ngươi phải nhớ, muốn bảo đảm được vãng sanh về Cực Lạc đòi hỏi phải có đủ ba phần chánh sau đây :

  1. Phải có TÍN lực (tin cho thật bền chắc)
  2. Phải có NGUYỆN lực (nguyện được vãng sanh)
  3. Phải có HẠNH lực (sự tu hành, niệm Phật ít nhất là 30 ngàn câu trở lên mỗi ngày)

Ngoài ba phần chánh trên, còn phải tu thêm bốn phần phụ, đó là :

  1. Tích lũy công đức (phải làm nhiều việc cứu độ cho người khác phát tâm sám hối, bỏ tà quy chánh)
  2. Thực hành Bồ Tát hạnh và tứ vô lượng tâm (có đại tâm cứu giúp người và có lòng từ, bi, hỷ, xả) rất lớn.
  3. Học cho rành rẽ pháp tu Niệm Phật và hiểu rõ thế giới Cực Lạc mà mình muốn sanh về.
  4. Thật sự nhàm chán cõi Ta Bà nầy, sợ sự sanh tử luân hồi, ngày đêm tha thiết mong cầu được sanh về Cực Lạc để gặp Phật A Di Đà (tiếp tục niệm Phật cho thỏa chí, không bị ai quấy rầy, ngăn cản).
  5. Phải TẬN TÂM, TẬN LỰC, TẬN CƯỜNG (thì mới thoát khỏi được tất cả nạn tai)

Như vậy mới có thể bảo đảm vãng sanh Cực Lạc, nhập vô “Liên Trì Hải Hội” được”.

Bảo Đăng hỏi thêm :
“Bạch Bồ Tát, vậy người nầy hiện đang ở đâu ‌”

Ngài liền đưa ngón tay chỉ một cái, Bảo Đăng thấy mình đang đứng trong Địa Tạng đường của chùa, trước tấm hình của người nầy rồi.

Bồ Tát lại dạy tiếp :

“Mỗi lần ngươi hộ niệm cho ai, đều phải hỏi cho rõ ràng là họ “tha thiết” muốn đi đâu, rồi theo tâm nguyện đó mà đưa họ đi, chứ không phải ai ai cũng đưa về Cực Lạc cả.

Nếu ngươi hộ niệm cho người nào mà có đầy đủ Tín Nguyện Hạnh và họ được nhập vô “Liên Trì Hải Hội”, thì ngươi sẽ được hưởng trọn vẹn công đức lớn, và phẩm vị vãng sanh của ngươi mai nầy cũng được cao hơn. Nếu ngược lại ngươi sẽ bị giảm phẩm vị xuống.

Cho nên phải cẩn thận, vì “nghiệp lực” của mỗi người mỗi khác, và phải biết dùng “phương tiện” khéo thì mới có thể cứu độ được cho nhiều người, chứ không phải người nào cũng hộ niệm (vãng sanh) giống như vậy cả, vì “nghiệp lực” (trong phút lâm chung) của mỗi người đều khác nhau.

Chư Phật, chư đại Bồ Tát cũng đều muốn tất cả chúng sanh được giải thoát ra khỏi sanh tử. Nhưng trong tâm của chúng sanh lại “không hề có hình ảnh cõi Cực Lạc, không hề có hình ảnh đức Phật A DI ĐÀ”, thì dù cho chư Phật, chư đại Bồ Tát có đến rước, họ cũng không muốn đi, vì “không biết Phật DI ĐÀ là ai ‌‌”.

Ngươi đã làm Phật sự bấy lâu nay, hoằng dương chánh pháp của Phật, đã nhiều lần trùng tuyên lại những lời Pháp và Chú Ấn của TA, đem ra chỉ dạy cho người hữu duyên tu tập… vậy có được mấy người TIN, mấy người chịu nghe và có được mấy người đã hoan hỷ chịu trì chú của Ta ‌

Vì chúng sanh có những thứ “tâm cố chấp kiên cố” như thế, nên chư Phật phải dùng thiện xảo phương tiện và thuận theo TÂM LỰC (mong cầu) của chúng sanh mà cứu độ. Cũng như hiện nay chúng sanh không có tâm cầu đạo giải thoát, không tin nơi “nhân quả”, phỉ báng lời dạy của Phật, và còn cố ý gây tạo ra vô số nghiệp tội, phá diệt Phật Pháp, giết hại vô số chúng sanh vô tội.

Từ những cái tâm ác đó đã chiêu cảm đến nhiều “Thiên tai” khổ nạn. Thì TA cùng chư Phật cũng không sao cứu được, vì trong Tâm của họ quá lẫy lừng những tánh “ÁC”. Khẩu của họ lúc nào cũng chứa đầy ấp những lời chửi mắng ác độc, thô-lỗ, bất thiện (ngoài miệng luôn thường cầu khẩn lên Thần Thánh gia hộ cho mọi sự được may mắn, làm ăn phát đạt, gia đình hạnh phúc, con cháu khỏe mạnh… lại cũng từ cái miệng đó luôn chửi mắng người thô-tục không ngừng nghỉ) nên cái “quả” xấu tự chiêu cảm ra xứng cái tâm, cái khẩu (nghiệp ác) của họ, chứ không có Thần Thánh nào đem họa đến cho chúng sanh cả.

Chúng sanh không chịu sám hối tội lỗi (thân, khẩu, ý) của mình, mà còn trở lại trách mắng Phật, Trời (sao không gia hộ cho họ được mua may bán đắc vậy ‌), thì hậu quả lại càng dữ dội hơn.”

Ngài dạy tiếp :
“Người nầy sau khi xuống trần, đi vào nhà con cái cũng không được, thành ra phải lang thang, làm hồn ma vất vưởng, đói lạnh. Cũng may còn chút trí khôn, chợt nhớ đến chùa mà nhập vô bài vị liền, bằng không đã bị yêu tinh vây lưới bắt hồn rồi”.

Bồ Tát nói với cái vong nầy rằng :
“Nếu ngươi biết hối hận, phải lo sám hối tu hành lại trong 49 ngày, Bảo Đăng sẽ cho ngươi ăn và thuyết pháp cho ngươi nghe. Sau 49 ngày, nếu ngươi biết thức tỉnh, sám hối tu niệm, thì sau bảy thất, ngươi muốn về cõi Trời, hoặc cõi Người, Bảo Đăng sẽ hộ niệm cho ngươi được như-ý, trừ cõi Cực Lạc !”

Bảo Đăng vội lạy sám hối với Bồ Tát và hứa sẽ không hộ niệm bừa bãi nữa. Bồ Tát dạy Bảo Đăng thêm rằng :

Ta cũng cho ngươi biết thêm rằng hiện nay số người được “Thánh Chúng tiếp dẫn vãng sanh” rất là ít. Trong 1000 người được hộ niệm, vãng sanh chỉ được một. Số người được đầu thai về cõi lành cũng rất ít. Nếu may mắn được thăng Thiên, chỉ trụ ở Thiên giới được 1 năm mà thôi (khi sống không có tu hành hoặc gây tạo nhiều phước đức), vì không đủ “phước đức” để trụ lâu dài trên cõi Trời hơn được. Còn số người bị “đọa lạc” (trong 3 ác đạo) ngày càng thêm đông không kể xiết”.

Phải biết thêm rằng :

  • Tất cả người được vãng sanh về Cực Lạc, sanh lên cõi Trời, đầu thai vào cõi Thần (A-Tu-La, cùng tất cả loại Thần khác),  đầu thai lại làm người, hoặc đọa xuống địa ngục, đọa làm ngạ quỷ và đọa vào loài súc sanh vẫn còn hưởng được sự hồi hướng công đức từ nơi thân nhân (con cháu 7 đời) của họ khi phát tâm chân thật tu hành, cúng dường, in Kinh Đại-Thừa và  làm tất cả những việc lành.
  • Nếu Cửu huyền thất tổ (7 đời) đã được vãng sanh về Cực-Lạc còn nằm trong 3 phẩm Hạ sẽ được nở ra mau hơn, được thấy Phật sớm hơn, được đi khắp mười phương cúng dường chư Phật, và được cùng với chư đại Bồ Tát đi cứu độ chúng sanh. Chứ không phải được “vãng sanh” rồi là không cần hồi hướng nữa, thì người đó sẽ nằm trong thai sen vô thỉ kiếp biết đến chừng nào mới nở ra được.
  • Những ai được sanh lên cõi Trời, cõi Thần thì chức phẩm của họ sẽ được thăng tiến, thời gian ở cõi Trời, cõi Thần cũng được tăng thêm.
  • Nếu được đầu thai lại làm Người, mặc dù đã qua kiếp đời khác, thay tên đổi họ, thay hình đổi dạng, khác cha khác mẹ, khác phong tục tập quán rồi, nhưng A lại da thức (là thức thứ 8, vẫn còn giữ hết tất cả những chủng tử thiện, ác) thì không thay đổi, đó là những NGHIỆP (thiện, ác) đã gây tạo trong quá-khứ lâu xa về trước… vẫn theo đời đời, kiếp kiếp như bóng với hình; hễ hội đủ nhân duyên là phải trả (món nợ cũ cho oan gia, trái chủ v.v…)”.

Có đôi khi ta tự nhiên cảm thấy thân tâm nhẹ nhàng, tươi mát và nhận được sự may mắn, là do nhận được sự “hồi hướng công đức” của thân nhân (từ con cháu 7 đời trước).

Thì huống hồ chi chính bản thân ta kiếp nầy tự tu, tự sám hối (cho những tội lỗi đã gây tạo trong quá-khứ lâu xa về trước), và làm tất cả những việc lành để trước :

(còn tiếp về sự rửa tâm và sửa tánh của pháp môn Tịnh Độ….)

Share: