Nội dung chính trong bức thư:
Tiết 1: Thân tiền hữu và thân trung hữu.
-
-
Các giai đoạn thọ báo của thân trung hữu
Tiết 2: Các tướng trạng sai biệt của thân trung hữu.
-
-
Trung ấm thân khi đầu thai :
Trước khi vào chuyện :
… Nhân có một
Phật tử đến thăm, trong phần mạn đàm về đạo lý, Phật tử nầy xin được biết về một vài điều liên quan đến cái “kiếp lai sinh” của con người mà từ lâu trong lòng vẫn còn mang ít nhiều thắc mắc, nghi vấn….
Vị (thanh niên) Phật tử nầy là người hấp thụ một nền học vấn Tây phương, có khả năng và kiến thức tương đối cao cùng trình độ ngoại ngữ giỏi, cho nên có thể xem được các kinh sách và giáo lý viết bằng Anh ngữ của một vài tôn giáo bạn…Các thắc mắc hỏi ra thì rất nhiều, nhưng điều quan trọng nhứt trong buổi thưa hỏi về giáo lý cùng với tôi hôm đó liên quan đến một vài vấn đề sau đây :
- Bạch thầy, con có xem vài quyển sách giáo lý của một tôn giáo bạn nói về sự đầu thai chuyển kiếp của con người, nhưng chung cuộc lại con cũng vẫn chưa hiểu rõ là con người sau khi chết rồi thì linh hồn hoặc là được siêu thoát lên thiên đàng, hay là bị đọa lạc xuống địa ngục bằng cách nào, do nguyên nhân nào dẫn dắt… sự lên xuống đó ra sao, trong bao lâu, và thời gian lên xuống đó… như thế nào ?
Ðây là sự thắc mắc của cá nhân và con thiết nghĩ có lẽ cũng là nghi vấn chung cho các Phật tử tân học cũng như con muốn tìm hiểu về phương diện đầu thai, chuyển kiếp theo quan niệm của đạo Phật mình, bởi vì có một vài tôn giáo khác họ bài bác lý thuyết nhân quả, luân hồi và nói rằng con người chết đi là mất hết, chẳng có kiếp sau, hoặc nói chỉ có vị giáo chủ của họ mới là người duy nhất cứu rỗi được linh hồn sau khi chết, ngoài ra không còn ai là người có đủ quyền phép nữa hết, vv…
Vì vậy cho nên có một số tín đồ Phật giáo chưa từng học hỏi và tham cứu kinh điển, giáo lý của đạo mình – trong đó cũng có cả con nữa – nghe thấy, những lời nói đó xong cảm thấy chán nản muốn thối thất tâm đạo (Phật) của mình, quay về tôn giáo khác. Là một Phật tử có đôi chút tâm hồn vị đạo, nên con cũng rất buồn khi thấy có một số các sự việc như thế xảy ra. Nhưng chính con đây cũng còn chưa hiểu rõ thay, thì làm sao có thể vì các người ấy mà phân bày, chỉ vẽ được.
Dám xin thầy là người trong cửa đạo và là người mà các Phật tử tin tưởng, nương dựa tinh thần, thường hay đến học hỏi cùng tham cầu về đạo lý, từ bi giảng giải cho con hiểu rõ… rất lấy làm cảm tạ…
Vào chuyện…
Qua các lời vấn pháp trong đề yếu nêu trên, nay tôi trước vì người thưa hỏi, sau nữa là chung đến cho các Phật tử nào muốn tìm hiểu và học hỏi các điều diệu lý trong đạo pháp của ta, nhưng lại không được chỉ dẫn rõ ràng, thành ra không tin, không biết, vì thế cho nên thường hay bị xảy ra các việc đáng buồn là nghe theo những người ngoại giáo nói pháp sai lầm…. rồi thối thất đạo tâm đi mà phủ nhận những gì cao đẹp sẵn có của đạo mình mà quay bước về nơi hướng khác.
Trước cái cảnh “ngọc quý nơi tay” mà đành lòng buông bỏ để nhặt lấy một viên đá sỏi tầm thường, riêng cá nhân tôi đứng trên cương vị của một người tăng sĩ, làm sứ giả Như Lai, hướng dẫn tinh thần trong Phật giáo, là người trực tiếp nghe hỏi về việc nầy mà lại không vì đó đốt lên ngọn đuốc sáng để hiển rõ lên các nghi vấn ấy hay sao
Cho nên hôm nay tôi tạm biên khảo lên đây đôi dòng bày tỏ, minh giải các điều thắc mắc kia ra, hầu giúp ích cho các hàng Phật tử khắp nơi được rộng thêm ít nhiều kiến giải để khỏi bị lâm vào trong cảnh “nhắm mắt đi đường” mà uổng danh làm “người con của Phật”.
Thoát Kiếp Phù Sinh.
Bất luận là một chúng sanh nào thuộc vào trong hàng tứ sanh [1] đều phải bị mang lấy một sắc thân, hay nói cách khác hơn là phải có thân xác để duy trì mạng sống.
Theo kinh dạy thì cái thân xác (mà chúng ta) hiện đang mang đó gọi là “thân tiền hữu”.
Vì sao gọi là thân tiền hữu
- Tiền có nghĩa là trước, khởi thủy, đầu tiên…
- Hữu là có, là đang mang, đang nhận lấy….
Vậy thân tiền hữu là cái thân xác tứ đại do các nghiệp duyên tiền kiếp tạo thành mà chúng sanh chúng ta đang mang lấy hiện nay. Thân tiền hữu nầy lần lượt sẽ phải bị trải qua bốn giai đoạn vô thường là Sanh, Già, Bệnh, Chết. Không có nhứt “thân tiền hữu” của bất cứ một loại chúng sanh nào vượt qua được bốn cái định luật vô thường bất di, bất dịch ấy cả. Kể luôn đến các bậc thiên tiên [2] hay hàng thiên dân [3] nơi những thiên xứ nữa…
Thân tiền hữu chỉ lưu trụ (sống còn) được trong một thời gian hoặc chậm hay mau, ngắn ngủi hoặc lâu dài nào đó mà thôi chớ không được vững bền, trường cửu. Bởi lẽ hễ có sanh tất phải bị hoại diệt, dù cho có luyện thành tiên đơn (thuốc tiên) uống vào để kéo dài thêm tuổi thọ cho thế mấy đi nữa, bất quá cũng chỉ được sự trường sanh (sống lâu) mà thôi, chớ không bao giờ được bất tử (không chết) cả.
Thần thức sau khi mạng chung
-
Thân tiền hữu:
Thân tiền hữu tức là thân sống hiện tại mà ta đang mang lấy và giữ gìn vô cùng kỹ lưỡng (khi ta còn sống ở trên thế gian nầy). -
Thân trung hữu:
Hễ có thân “tiền hữu” thì đương nhiên là phải có thân “trung hữu” và thân “hậu hữu”.
Nay hãy nói đến thân trung hữu trước hết. Thế nào gọi là thân trung hữu ?
- Trung là ở khoảng giữa,
- Hữu là hiện có, là đang mang lấy…..
Vậy cho nên thân trung hữu tức là thân kế sau của thân tiền hữu. Hay nói một cách khác hơn nữa là tất cả các loại hữu tình chúng sanh sau khi mạng chung (chết) tức là đã bỏ thân tiền hữu rồi. Khi đó thân xác hoàn toàn bị hư hoại, ngũ ấm chia lìa, tứ đại phân ly, linh hồn [4] liền thoát ngay ra khỏi xác thân tiền hữu, trước khi chưa thọ lấy thân hậu hữu (tức là thân của đời sau) thì linh hồn nầy ở vào trong giai đoạn thọ cảm lấy một cảnh giới khác và mang lấy một thân thể khác gọi là thân trung hữu.
Tóm tắt lại thân trung hữu đây tức là “linh hồn” của người chết vậy.
-
Các giai đoạn thọ báo của thân trung hữu
Thân trung hữu do năm ấm vi tế [5] là sắc, thọ, tưởng, hành, thức kết thành, cho nên còn có thêm một tên nữa là Trung ấm thân. Trung ấm thân nầy có nhiều hình sắc khác nhau nhưng đại khái thì có hai loại chánh :
- Một là hình sắc xinh đẹp,
- Hai là hình sắc xấu xa.
Trung ấm thân nầy trước khi thọ cảm lấy thân hậu ấm (nói ở phần sau) sẽ phải trải qua một thời gian là 49 ngày để “minh định nghiệp báo”, tức là cảm thọ lấy các nghiệp nhân hoặc thiện hoặc ác mà kẻ ấy đã gây tạo ra trong lúc còn mang thân tiền hữu (còn sống).
Kinh Ðịa Tạng có dạy rằng :
-
“vô thường đại quỷ bất kỳ nhi đáo, minh minh du thần, vị tri tội
phước, thất thất nhựt nội, như si như lung, hoặc tại chư ty biện luận nghiệp quả, thẩm định chi hậu, cứ nghiệp thọ báo…”
Nghĩa là :
- “Con quỷ vô thường kia không hẹn mà đến, thần hồn vơ vẫn mịt mù chưa rõ là tội hay phước, trong 49 ngày như ngây, như điếc, hoặc ở tại các ty, sở để biện luận về nghiệp quả, khi thẩm định xong, thời cứ y theo nghiệp mà thọ lấy quả báo…”
Như vậy thì thân trung hữu, hay nói cách khác hơn là “Trung ấm thân” không liền được đi “đầu thai chuyển kiếp” sau khi thoát ra khỏi xác thân tiền hữu, mà (bắt buộc) phải trải qua 49 ngày bị giam cầm tại các ty sở nơi cõi u minh (âm phủ). Nơi đó có một hội đồng phán xét gồm các vị phán quan và Minh vương (vua Diêm vương), những vị nầy chiếu theo sổ bộ mà hai vị thần “tả, hữu vai giáp” (tên là Ðồng Sanh, Ðồng Danh) đã ghi chép lại hết tất cả các việc thiện ác mà kẻ đó đã tạo tác ra lúc còn mang thân tiền hữu (tức là lúc còn sống), một mảy mún cũng không sót thiếu, rồi y theo đó mà cân phân, định đoạt số phần để cho thân trung hữu đi đầu thai (tức là cho đi thọ “thân hậu hữu” nơi kiếp đời kế tiếp).
Hai sổ bộ thiện ác nầy lúc còn sống cũng như sau khi chết đều đi theo bên mình chúng sanh không rời như hình với bóng, chẳng bao giờ dứt đoạn (Kinh gọi là “nghiệp nhân gây tạo”). Khi thần thức (linh hồn) thoát ra khỏi xác “thân tiền hữu” và trở thành “thân trung hữu” rồi thì phải bị nghiệp nhân (tức là sổ bộ thiệc, ác) nầy dẫn dắt ra trước một “hội đồng phán xét” (như vừa nói ở trên) để thẩm định tội phước trong vòng 49 ngày.
Sau đó rồi cứ lấy kết quả cuối cùng mà cho đi đầu thai chuyển kiếp (tức là thọ lấy thân hậu hữu) tương xứng với tội phước (mà khi còn mang thân tiền hữu đã gây ra) trong sáu nẻo luân hồi, không bao giờ lầm lẫn hoặc oan uổng chút nào hết cả.
Trong kinh Ðịa Tạng có dạy rằng :
- “Nhược năng cánh vị thân tử chi hậu, thất thất nhựt nội, quảng tạo chúng thiện, năng sử thị chư chúng sanh vĩnh ly ác thú, đắc sanh nhơn thiên, thọ thắng diệu lạc, hiện tại quyến thuộc, lợi ích vô lượng…”
Nghĩa là :
- “Như sau khi người đã chết, lại có thể trong vòng 49 ngày thân quyến vì người ấy mà tu tạo nhiều phước lành, thời có thể làm cho người chết đó ra khỏi hẳn chốn ác đạo, được sanh lên cõi trời hoặc trong loài người, hưởng lấy những sự vui sướng, mà kẻ thân quyến hiện tại đó cũng được rất nhiều các sự lợi ích…”
Y theo lời kinh vừa dẫn chiếu trên đây, nếu như các thân quyến biết rằng người thân nhân vừa mới quá cố của mình khi còn sanh tiền đã gây tạo nên nhiều ác nghiệp, tất sẽ phải bị thọ báo nơi địa ngục. Lúc đó các người ấy vì thương xót kẻ quá cố nên y theo lời Phật dạy, đứng ra làm các việc công đức, phước lành như bố thí, phóng sanh, trì tụng kinh chú,… rồi đem những công đức ấy mà hồi hướng cho quá cố hương linh (lúc đó kẻ ấy vẫn đang còn mang “thân Trung ấm” chớ chưa đi đầu thai, chuyển kiếp).
Trong vòng 49 ngày (kể từ ngày chết), nếu như y biết theo pháp Phật đã dạy mà thực hành, thì “Trung ấm thân” của người quá cố ấy, sẽ được tội tiêu, chướng diệt, lìa hẳn chốn ác đạo mà sanh về cõi trời, người, thọ lấy những điều an vui, sung sướng. Chẳng những thân trung hữu kia được lợi lạc như thế (sau khi đã thọ lấy thân hậu hữu) mà những người quyến thuộc đứng ra làm các việc phước đức ấy cũng hưởng được nhiều điều lợi ích.
Tóm lại, giai đoạn thọ báo của thân trung hữu trong Trường hợp thông thường là phải trải qua 49 ngày, thời gian đó gọi là giai đoạn “chuyển tiếp” cực kỳ quan trọng cho kiếp lai sinh của Trung ấm thân [6]. Sau 49 ngày đó rồi thì phải bị theo dòng nghiệp lực dẫn dắt mà luân lưu vào trong sáu nẻo luân hồi.
Tuy nhiên thời gian thọ báo của thân trung hữu nầy không phải chỉ có một Trường hợp duy nhất như trên mà thôi, ngoài ra còn thêm vào vài ba Trường hợp ngoại lệ đặc biệt khác nữa.
-
Trường hợp thọ báo đặc biệt của thân trung hữu
Như trên vừa mới nói, thân trung hữu phải trải qua một thời gian chuyển tiếp là 7 lần 7 ngày, sau đó mới cảm thọ lấy thân hậu hữu. Tuy nhiên cũng có những Trường hợp đặc biệt mà thân trung hữu không cần phải trải qua giai đoạn chuyển tiếp thông thường đó. Có hai trường hợp đặc biệt như sau :
- chúng sanh khi còn mang thân tiền hữu đã có gây tạo nên những nghiệp nhân cực thiện (lành tốt bậc nhất) – tức là gieo nhân thập thiện bậc thượng – thuộc các cõi trời dục giới.
- chúng sanh khi còn mang thân tiền hữu đã gây tạo những nghiệp nhân cực ác (ác độc bậc nhất) – như phạm tội tứ trọng [7], ngũ nghịch [8], thập ác [9] – thuộc đại địa ngục A tỳ.
Hai loại chúng sanh nầy sau khi đã bỏ thân tiền hữu rồi thì thần thức hoặc liền được siêu thoát ngay về các cõi trời tương xứng (nhân cực thiện), hoặc bị đọa thẳng xuống đại địa ngục (A tỳ) tức khắc (nhân cực ác) chớ không có trải qua giai đoạn 49 ngày thông thường của Trung ấm thân như trên đã nói.
tất cả các loài Trung ấm thân vừa kể trên đều còn phải bị lệ thuộc vào trong ba cõi, sáu đường (trời dục giới, sắc giới, vô sắc giới và sáu nẻo luân hồi).
Ngoài ra còn lại có thêm một loại chúng sanh “ngoại hạng” không cần phải trải qua giai đoạn thân Trung ấm và cũng không bị lệ thuộc vào trong ba cõi, sáu đường nữa. Ðó là các chúng sanh khi còn mang thân tiền hữu đã có y theo pháp Phật tu hành, như niệm Phật và phát lòng tín, nguyện cầu sanh Cực Lạc.
Các chúng sanh ấy sau khi bỏ thân tiền hữu rồi thì thần thức liền siêu thoát ngang qua ba cõi, nương theo nguyện lực nhiếp thọ của chư Phật, Bồ tát, trong khoảng sát na (một sát na có 36 cái chớp mắt) lập tức được hóa sanh ngay về cõi nước Cực Lạc của đức Phật A Di Ðà, ngự trên tòa sen báu, vĩnh viễn thoát khỏi các cảnh luân hồi, sanh tử.
Trên đây là phần sơ lược về các loại thân trung hữu để cho qúy Phật tử cùng chư hiền tu học Phật pháp muốn nghiên cứu về phương diện nầy hiểu rõ thêm về linh hồn (thần thức) của con người sau khi chết sẽ được diễn tiến như thế nào.
Tiết mục kế tiếp đây sẽ nói về hình dáng và các sự sai biệt của thân trung hữu cùng với những sự thọ sanh về các nơi trong sáu đạo luân hồi.
-
Thân trung hữu và các hình tướng sai biệt :
Một lần nữa để định nghĩa cho rõ ràng hơn vì sao mà gọi là “thân trung hữu”
“trung hữu thân” là “thân quả báo” ở giữa khoảng đời nầy và đời sau, vì vậy cho nên gọi là Trung, còn các quả báo sẽ phải bị cảm thọ kia vốn thật có chớ chẳng phải không nên mới gọi là hữu.
Phật dạy cùng với ngài Nan Ðà [10] rằng :-
trung hữu thân có hai loại :
- Một là đẹp.
- Hai là xấu.
- trung hữu thân của địa ngục hình dáng rất xấu, sắc đen như mực.
- trung hữu thân của loài bàng sanh (súc vật) sắc nám đen như khói.
- trung hữu thân của loài ngạ quỷ (quỷ đói) sắc trắng như nước.
- trung hữu thân của loài người màu sắc vàng tươi.
- trung hữu thân của chư thiên nơi cõi trời dục giới sắc như vàng ròng, rực rỡ.
Cả hai loại thân trung hữu của người và chư thiên nầy lớn bằng đứa bé năm bảy tuổi, không có trang phục tùy thân.
- trung hữu thân của chư thiên ở cõi trời sắc giới rất đẹp, màu trắng tươi, sáng rỡ như ngọc, lớn bằng thân tiền hữu và có y phục mặc sẵn trong mình (do những chủng tử tiềm tu trong nhiều kiếp tạo thành).
- chúng sanh ở cõi trời vô sắc vì không có thân, sắc tướng cho nên không có thân Trung ấm như chúng sanh ở hai cõi Dục và Sắc.
Trung ấm thân có loài hai tay, hai chân, nhiều tay, nhiều chân, hoặc không có tay chân. Sở dĩ Trung ấm thân có nhiều hình tướng sai biệt như vậy là do nơi nghiệp nhân đã gây tạo ra lúc còn mang thân tiền hữu mà cảm thành.
Chúng hữu tình hễ thác sanh về loài nào, đạo nào thì thân Trung ấm phải mang hình dạng của loài ấy. Ví dụ như thác sanh về loài người thì mang thân người, về loài trâu, bò thì mang thân trâu bò… Các loài khác cũng vậy.
-
trung hữu thân có hai loại :
-
Trung ấm thân khi đầu thai :
Trong Trường hợp thông thường, nghĩa là sau khi mãn 49 ngày và các nghiệp nhân gây tạo lúc còn mang thân tiền hữu cũng đã được cân phân, định liệu xong rồi, thời cứ theo kết quả còn sót lại sau cùng, Trung ấm thân phải nương theo đó mà chuyển kiếp, tức là thọ lấy thân hậu hữu. (Hay nói theo cách khác nữa là đi đầu thai), hoặc siêu thoát lên các cõi trời, hoặc tái sanh lại làm người, hoặc chuyển thành loài bàng sanh, hay bị đọa vào trong loài các quỷ đói, địa ngục, vv…
Mỗi mỗi loại chúng sanh đều có hình dáng xấu đẹp, sang hèn, phân định khác nhau, đó đều là do các nghiệp nhân đã tạo ra khi còn mang thân tiền hữu cảm thành. Cho nên trên thế gian nầy có đến vô lượng giống loại khác nhau, chính là như vậy.
Có một vị tăng thưa hỏi Phật rằng :
- Bạch đức Thế Tôn, cớ sao trên cõi nhân gian nầy lại có nhiều chúng sanh mang các hình dáng khác nhau, thậm chí đến cả loài người trong hàng anh em ruột thịt mà cũng không ai giống nhau hết cả
Phật đáp :
- Thiện nam tử, bởi các chúng sanh, Mỗi mỗi đều gây tạo nên những nghiệp báo bất đồng, cho nên khi thọ thân hậu hữu cũng đều phải khác nhau như vậy.
Tóm lại :
Sau 49 ngày, Trung ấm thân sẽ cảm nhận lấy dư nghiệp còn sót lại mà đi “đầu thai”.
- Trung ấm thân của chư thiên (người cõi trời) lớn như một đứa con nít năm bảy tuổi, không có y phục tùy thân, màu sắc như vàng ròng, đầu hướng về phía trên mà bay đi (vì siêu lên cõi trên nên đầu hướng lên).
- Trung ấm thân của loài người màu sắc vàng tươi, lớn bằng đứa con nít năm tuổi, không có y phục tùy thân, nằm ngang mà bay đi (bởi vì không lên, không xuống nên phải nằm ngang).
- Trung ấm thân của bàng sanh (súc loại) mang lấy hình dạng của loài (mà họ) sắp phải thọ sanh, sắc nám đen như khói, nằm ngang mà bay đi.
- Trung ấm thân của địa ngục hình dáng bất định, màu đen như than, nằm sấp, đầu trút xuống đất mà bay đi (bởi vì phải bị đọa cho nên đầu trút xuống đất).
tất cả các Trung ấm thân đều có thần thông, nương nơi hư không mà bay đi, mắt nhìn rất xa và sáng suốt, trong chớp mắt đã tìm được đến nơi phải thọ sanh rồi.
Trung ấm thân cũng có đầy đủ các căn như tai, mắt, mũi, miệng, vv… chung quanh mình đều có ánh sáng, tùy theo nghiệp đã tạo ra lúc còn mang thân tiền hữu mà ánh sáng ấy đều có màu sắc thắng, liệt (hơn, kém) khác nhau.
- trung hữu thân của kẻ tạo nghiệp ác, chung quanh mình ánh ra màu sắc đen xám như đêm tối mờ mờ.
- trung hữu thân của kẻ tạo nghiệp thiện, chung quanh mình ánh ra màu sắc trắng, tựa như đêm trăng tỏ…
Lại nữa, mắt của Trung ấm thân nhìn rất xa, thấu suốt như thiên nhản, không bị trở ngại, có thể thấy được các thân trung hữu khác và chỗ mà mình sẽ phải thọ sanh (lấy thân hậu hữu).
Trong giây phút thân Trung ấm có thể bay giáp vòng núi Tu Di, xuyên qua đất đá, núi non, tường vách, vv… đều không bị trở ngại, chỉ trừ có tòa Kim cang của Phật và bào thai của mẹ mà thôi.
Như trên đã nói, đây chỉ xin lược lại :
- Thân trung hữu nào thuộc về nghiệp ác thì úp mặt cúi xuống mà bay đi.
- Thân trung hữu nào thuộc về nghiệp thiện thì đầu ngước lên mà bay đi.
Thông thường Trung ấm thân chỉ lưu trụ được bảy ngày. Như không tìm được chỗ thọ sanh trong thời hạn ấy thì phải chết đi rồi sống lại. Nhưng đại khái không quá bảy lần (tức là 49 ngày) thì phải thọ sanh lấy thân hậu hữu.
trung hữu thân khi chết đi, hoặc sanh trở lại y như thân trước, hoặc do nơi nghiệp nhân chiêu cảm có thể biến đổi thành ra thân trung hữu của loài khác trước khi thọ thân hậu hữu. [11] trung hữu thân cũng có thêm một tên khác nữa là Kiền đạt phược (hán dịch là Hương hành). Sở dĩ có tên nầy vì thân trung hữu đi tìm mùi và dùng mùi vị mà sống.
Khi thân trung hữu sắp diệt để thọ lấy thân hậu hữu, bấy giờ tùy theo các hành nghiệp đã gây tạo mà cảm thấy có nhiều Tướng trạng khác nhau. Lúc đó tâm thức của trung hữu thân có cảm giác mơ màng dường như ở trong mộng (tức là thấy, biết không được nhứt định rõ ràng).
Những kẻ gây nghiệp sát như lúc sanh tiền chuyên nghề giết heo, dê, gà, vịt, vv… thì lúc đó tự nhiên thấy toàn là những loài vật ấy. Hoặc mắt thấy có những kẻ hàng thịt tay còn đang cầm dao, búa làm thịt, hay tai nghe tiếng thú vật kêu la. Bởi do túc nghiệp chiêu cảm, trung hữu thân tự nhiên sanh ra tâm niệm yêu thích muốn đến tận nơi ngắm nhìn. Khi đến nơi rồi, liền bị các cảnh sắc đó làm cho trở ngại không thể nào thoát ly được. Trong chớp mắt liền bị diệt thân trung hữu mà thọ lấy thân hậu hữu (mang thân súc loại).
Lúc sắp diệt, thân trung hữu thấy nhiều màu sắc sanh diệt liên tục, như người bệnh sắp chết, trong cơn mê loạn thấy những hình tướng khác nhau, mắt chăm chú nhìn, tay chỉ chỗ nầy, chỗ nọ.
-
Trung ấm thân sanh về đường ác :
Trung ấm thân nào sắp sanh về cõi ác thường gặp các Tướng trạng sau đây, xin được kể khái lược:
- Trung ấm thân sắp sửa chuyển sanh về cõi thần A tu la, thì sẽ thấy những vườn cây khả ái, xinh đẹp, trong đó có những vòng lửa lẫn lộn chuyển xoay. Nếu thấy cảnh tượng đó mà đem lòng vui vẻ đi đến xem, tức là bị thác sanh về nẻo nầy.
- Trung ấm thân sắp sanh vào loài chó, lợn, thường thấy nhiều cô gái đẹp, liền sanh tâm ưa thích chạy theo. Do nhân duyên đó mà bị thác sanh.
-
Trung ấm thân nào sắp đọa vào các loài bàng sanh (thú vật) khác, tự nhiên cảm thấy có luồng gió mãnh liệt cuốn xoay không sao cưỡng lại được. Hoặc thấy vô số quỷ thần tay cầm khí giới, binh giáp rượt theo, hoặc thấy lửa cháy lan tới rần rần, sấm sét nổ phủ đầu dữ dội…
Hoặc thấy sương giăng mù mịt, núi lở, nước cuốn ầm ầm, tự mình sanh ra sợ hãi, chạy trốn vào trong rừng bụi, hang đá để ẩn thân, hoặc thấy ba cái hố màu trắng, đỏ, đen, liền nhào xuống để ẩn núp. Ngay khi (ẩn, núp, trốn) đó là lúc thần thức đã (bị lọt) vào trong bào thai, vừa mở mắt (sanh ra) đã thấy mình thọ thân dị loại như chồn, cáo, hùm beo, rắn rít, vv…
-
Trung ấm thân nào sắp sửa đọa vào đường ngạ quỷ, tự nhiên thấy trước mặt hiện ra một bãi sa mạc rộng lớn mênh mông, không cây cối, hoặc chỉ thấy toàn là những hang hố, cây cỏ khô héo…
Lúc ấy tự thấy mình bị gió nghiệp thổi đến nơi đó, trong khi thảng thốt, liền bị thác sanh về đường ngạ quỷ, chịu nhiều nóng bức, đói khát vô cùng.
-
Trung ấm thân nào sắp sanh về đường địa ngục, bên tai bỗng nhiên nghe có tiếng những bài ca hát hết sức buồn rầu, bi thảm (đó là tiếng kêu la, rên siết của tội nhân dưới địa ngục), kế đến lại thấy cảnh giới mù mịt, tối tăm hiện ra trước mặt, nhà cửa sắc đen hoặc trắng đượm đầy màu tang chế, âm u.
Hoặc thấy hang hố sâu thẳm, đường xá lờ mờ. Lúc ấy thấy chính mình bị các loài quỷ dữ tay cầm binh khí xua đuổi đi vào trong đó, khi vào rồi thì thân không được tự do, liền bị thác sanh vào trong địa ngục, tùy theo nghiệp báo, chịu vô lượng thống khổ.
- Trung ấm thân nào sắp sửa bị đọa vào địa ngục hàn băng, do nơi sức nghiệp chiêu cảm, thân thể bỗng nhiên sanh ra nóng bức không kham, gặp hơi lạnh ở nơi hàn ngục xông lên, tự cảm thấy mát mẻ dễ chịu, liền khởi lòng ưa thích vội bay tìm đến nơi đó để cho được mát mẻ, liền bị thác sanh…
- Trung ấm thân nào sắp sửa bị đọa vào ngục viêm nhiệt (hỏa ngục), do sức nghiệp chiêu cảm, bỗng nhiên thân thể cảm thấy lạnh lẽo vô cùng, khó thể kham nổi. Gặp hơi nóng ở hỏa ngục xông lên, tự nhiên cảm thấy ấm áp dễ chịu, liền khởi lòng ưa thích, vội vã tìm bay xuống nơi đó để sưởi ấm, ngay khi ấy là lúc thọ sanh.
- Trung ấm thân nào sắp sửa bị đọa vào địa ngục phẩn uế (ngục hôi thúi), do nơi sức nghiệp chiêu cảm, bỗng cảm nhận được một mùi thơm ngạt ngào đến mức chịu không kham. Bấy giờ trong tâm liền khởi niệm muốn tìm một mùi hôi thúi nào đó để lấn át mùi thơm kia đi. Gặp hơi thúi từ ngục phẩn uế xông lên, liền sanh tâm niệm ưa thích, bay đến nơi….. Do nhân duyên đó, liền bị thác sanh.
- Trung ấm thân nào sắp sửa chuyển thân vào nẻo A tu la, do sức nghiệp chiêu cảm tự nhiên trước mặt thấy một vùng ánh sáng lờ mờ, liền khởi lòng ưa thích, đi vào trong đó, liền bị thọ sanh.
- Trung ấm thân nào thấy một vùng ánh sáng màu xanh nhạt, khởi niệm ưa thích muốn vào dạo chơi trong đó. Ngay khi đi vào là lúc thọ sanh mang thân súc loại.
- Trung ấm thân nào thấy ánh sáng màu đỏ nhạt, khởi niệm ưa thích muốn vào dạo chơi trong đó. Ngay khi đi vào liền thọ thân loài ngạ quỷ (quỷ đói).
- Trung ấm thân nào thấy ánh sáng mờ đục như khói đen, khởi niệm ưa thích muốn vào dạo chơi trong đó. Ngay khi bước vào liền bị thọ thân địa ngục…chịu vô lượng thống khổ.
Lúc bấy giờ Ngài Ðại Dược Bồ tát thưa hỏi Phật rằng :
- “Bạch đức Thế Tôn, chúng sanh bị đọa vào nơi địa ngục có tướng trạng như thế nào
Phật bảo với Ngài Ðại Dược Bồ tát :
- …Những chúng sanh nào tạo nên nghiệp ác, sắp sửa đọa vào trong địa ngục, tự nhiên có lòng buồn thảm, kinh sợ. Tùy theo nghiệp của mình chiêu cảm mà tự thấy hình tượng của các cảnh địa ngục hiện ra…”
Khi thần thức vừa lìa khỏi xác thân, liền thác sanh về nơi đó mà không cần phải trải qua giai đoạn 49 ngày của thân Trung ấm.
Hoặc có kẻ thấy nơi phương khác, có hình dáng đỏ tươi dường như máu rưới, liền sanh lòng nhiễm đắm. Do nhân duyên đó mà bị thọ sanh……..Bấy giờ, ngài Bạt Ðà La Bà Lê; thưa với Phật rằng :
- Bạch Thế Tôn, các chúng sanh ở địa ngục có thân hình và màu sắc gì, sự thọ thân như thế nào
Ðức Thế Tôn bảo rằng :
- Nếu chúng sanh nào nhiễm đắm vào trong chỗ máu thì thân thể có sắc đỏ tươi như máu.
- Nếu chúng sanh nào nhiễm đắm sông Tỳ la ni (sông Nại hà) thì thân thể dường như sắc mây, không trắng, không đen.
- Nếu chúng sanh nào nhiễm trước sông Khôi Hà thì thân thể có sắc vằn…(như ngựa vằn).
Về sự thọ thân thì các chúng sanh ở nơi địa ngục có thân thể to lớn, cao tám chẩu rưỡi [12] râu ria cùng tóc lông rất dài, bàn chân hướng ngược về phía sau, dáng mạo vô cùng kỳ dị.
Giả sử như có chúng sanh nào ở châu Diêm phù đề trông thấy các hình tướng ghê gớm ấy, cũng đủ kinh sợ mà chết…”(kinh Ðại Bảo tích)
-
Tướng trạng khi sắp lâm chung sanh về nơi ác đạo :
Một chúng sanh khi còn đang mang thân tiền hữu – (lúc gần chết) – mà sắp sửa bị đọa về nơi ác đạo (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh) sẽ có những Tướng trạng báo trước như sau :
-
Ðọa vào loài thú vật :
(Người đó) trước khi lâm chung sẽ có các triệu chứng sau :
- Thân mang bệnh nặng, tâm mê mờ tán loạn như ở trong mây mù.
- Sợ nghe các danh hiệu Phật, không chịu nghe ai khuyên bảo điều lành.
- ưa thích mùi cá, thịt.
- Quyến luyến vợ con, đắm đuối không bỏ.
- Các ngón tay và chân đều co quắp lại.
- Cả mình toát ra mồ hôi.
- Khóe miệng chảy ra nước.
- Tiếng nói khò khè, rít róng rất khó nghe.
- Miệng thường ngậm đồ ăn.
Người vào khi lâm chung mà có 9 triệu chứng như trên, quyết định sẽ bị đọa vào trong loài súc vật.
-
Ðọa vào loài quỷ đói :
(Người đó) trước khi lâm chung sẽ có các triệu chứng như sau :
- Thân mình nóng như lửa.
- Lưỡi luôn luôn liếm môi.
- Thường cảm thấy đói khát, ưa nói đến các việc ăn uống.
- Miệng hả ra không ngậm lại.
- Tham tiếc tiền của, dây dưa khó chết, làm khổ gia quyến.
- Mắt thường mở trướng lên mà không nhắm lại.
- Ðôi mắt khô khan như mắt chim gỗ.
- Không có tiểu tiện, nhưng đại tiện thì nhiều.
- Ðầu gối bên mặt lạnh trước.
- Tay bên mặt thường nắm lại, tiêu biểu cho lòng tham lam, bỏn sẻn.
- Lúc tắt hơi, hai mắt vẫn mở.
Người nào khi lâm chung mà có 11 triệu chứng như trên, quyết định sẽ phải bị đọa vào trong loài quỷ đói, không sao thoát được.
-
Ðọa vào nẻo địa ngục :
(Người đó) trước khi lâm chung có các triệu chứng báo trước như sau :
- Nhìn ngó thân quyến bằng con mắt giận ghét.
- Hai tay đưa lên quờ quạng trong chốn hư không.
- Ði đại, tiểu tiện trên chỗ nằm mà không tự hay biết.
- Thân thường có mùi hôi hám.
- Nằm úp mặt xuống hoặc che giấu mặt mày.
- Hai mắt đỏ ngầu.
- Nằm co quắp và nghiêng về bên trái.
- Các lóng xương đau nhức.
- Thiện tri thức dù có chỉ bảo họ cũng không tùy thuận.
- Ðôi mắt nhắm nghiền không mở.
- Mắt bên trái hay động đậy.
- Sống mũi xiêng xẹo.
- Gót chân, đầu gối luôn luôn run rẫy.
- Thấy ác tướng hiện ra, vẻ mặt sợ sệt, không nói được, thảng thốt kêu la lớn lên là có ma quỷ hiện.
- tâm hồn rối loạn.
- Cả mình lạnh giá, tay nắm lại, thân thể cứng đơ.
Người nào trước khi lâm chung mà có 16 triệu chứng nầy, quyết định sẽ bị đọa vào nơi địa ngục.
Trên đây là ba Trường hợp bị đọa vào nơi “tam đồ, ác đạo.” [13] Tuy nhiên cũng có những triệu chứng khác để cho các thân quyến dễ nhận biết rõ ràng hơn. Ấy là do các nghiệp nhân lành dữ đã gây tạo ra khi còn sanh tiền chiêu cảm, khi sắp lâm chung thần thức phân tán, tứ đại chia lìa, thân thể dần dần trở nên lạnh, chỗ nào còn nóng sau cùng là thần thức (Trung ấm thân) xuất ra từ nơi đó.
Có bài kệ tụng rằng :
Ðảnh thánh, mắt sanh trời,
Bụng nóng ngạ quỷ, tim nóng người,
bàng sanh thần thức ra đầu gối,
Nóng ở bàn chân địa ngục thôi. -
Ðọa vào loài thú vật :
(Xin xem tiếp bức thứ số 14).
Xót cảnh duyên đời mãi hợp tan.
Xanh tươi qua mất thay màu úa,
Xuân sắc còn đâu lắm ngỡ ngàng !
Phù Sinh một kiếp mau như thoáng,
Luân hồi sáu nẻo nghiệp mênh mang.
A DI như biết gìn tâm niệm,
Bờ kia giải thoát quyết sang ngang.
- Loài sanh ra bằng thai (như người ta, trâu, bò, vv…)
- Loài sanh ra bằng trứng (như gà, vịt, chim chóc, vv…)
- Loài sanh ra từ nơi ẩm ướt (như tôm, cá, vv…)
- Loài sanh ra bằng cách biến hóa (như vòi hóa ruồi, sâu hóa bướm, vv…)
Nếu trong vòng 7 ngày của mỗi kỳ hạn mà được thân quyến tạo phước và hồi hướng cho thì thân Trung ấm ấy sau khi sống lại, sẽ được tươi đẹp hơn 7 ngày trước. Ngược lại, nếu như thân quyến không biết mà còn gây tạo thêm việc ác (như sát sanh gà, vịt, heo, bò, vv… để cúng tế cho người chết) thì thân Trung ấm ấy sau khi sống lại sẽ bị đen tối, u ám, khổ sở hơn.(7 ngày trước kia).
- Dâm ( dục).
- Sát ( sanh).
- Ðạo (trộm cắp).
- Vọng (nói láo).
- Giết cha.
- Giết mẹ.
- Làm cho thân Phật ra máu (cố ý đập bể tượng Phật cũng là tội làm cho thân Phật ra máu).
- Giết hại A la hán, Hòa thượng, A Xà Lê(tức là thầy dạy đạo).
- Phá hoại hòa hợp tăng (làm cho đoàn thể chư tăng bị chia lìa).
Riêng tội thứ năm nầy, có Kinh dạy là:
- Làm ô uế người tu tịnh hạnh. (Cưỡng dâm người ni như sa di ni, tỳ kheo ni).
Ðó là :
- Sát sanh.
- Trộm cắp.
- Tà dâm.
b/- Khẩu (miệng) có 4 tội :
- Nói láo.
- Nói hung ác (nói lời trù rủa, mắng chưởi).
- Nói thêu dệt (nói lời bay bướm, ngọt ngào với dụng ý dụ dỗ, phá hoại trinh tiết người).
- Nói hai chiều (nói lời đâm thọc với mục đích gây thù hận cho cả hai bên).
c/- Ý có 3 tội :
- Tham lam.
- Nóng giận.
- Ngu si.
- Nếu như công đức mới gây tạo được đầy đủ để sanh thiên thì Trung ấm thân đó sẽ mang hình dáng chư thiên, thân màu như vàng ròng (xem lại phần trước về “Thiên Trung ấm thân”).
- Hoặc sẽ chuyển thân làm người lại thì sẽ mang “Nhơn Trung ấm thân”).
b/- Còn như trong vòng 49 ngày đó mà thân nhân (hoặc vô tình hay cố ý) gây nhân giết-hại sanh-mạng (như gà, vịt, heo bò vv….) để cúng tế cho người chết đó, thì thân Trung ấm ấy sẽ bị mang tội nặng thêm. Sau 7 ngày chết đi rồi sống lại, thân Trung ấm ấy sẽ biến đổi ra thân khác, hoặc đen đúa, xấu xa hơn, hoặc mang thân của loài súc vật, địa ngục, ngạ qủy….tùy theo tội (do thân nhân không biết đạo gây tạo thêm ra cho người chết) nặng hay nhẹ….
- Nhục đồ : Hình phạt xẻo thịt (lăng trì).
- Ðao đồ : Hình phạt dùng đao kiếm phân thây (gươm đao bay đầy khắp hư không chém chặt).
- Huyết đồ : Hình phạt dìm vào trong sông máu. Cả mình đều bị tiêu ra huyết.
Bình luận