(Trong kỳ “THƠ GỞI NGƯỜI HỌC
PHẬT” số 30, soạn giả đã có lược qua về 8 sở đại “NHIỆT NGỤC” và một số các hình phạt thống khổ nơi những ngục đó rồi….)
Kế tiếp theo đây….
Xin được khái lược 8 sở đại “HÀN NGỤC” (tức là 8 sở “ngục lạnh”) và đại cương về một số hình phạt nơi những “hàn ngục” đó.
HÀN NGỤC
Song song với 8 sở “Nhiệt ngục” chánh nầy, lại còn có thêm 8 sở “HÀN NGỤC” chánh nữa, danh mục (và sự thọ khổ) nơi đó đại lược như sau :
-
Ngục ÁN PHÙ ÐÀ :(Còn có thêm tên gọi khác nữa là :
- Ngục NGẠCH BỘ ÐÀ hay là PHÁO BỘ ÐÀ.
- Ngục A BA BA )
Tội nhơn bị đọa vào trong Ngục nầy, thân thể [1] phải bị chịu một sức lạnh khắc nghiệt bức khổ, khó thể nào kham nhẫn nổi, nên toàn thân đều bị “mọc ốc” hết, mỗi mục ốc ấy to như quả lê, đầy khắp mọi chỗ, nên xem dường như là cả mình đều mọc lên gai thịt, u nhọt, (do vì bị sức “hàn độc” công phá) nên da thịt thảy đều bị nứt nẻ, rướm máu.
Người bị đọa vào ngục nầy là vì khi còn sống gieo nhơn :
Ướp lạnh thân thể chúng sanh vào trong băng giá (như các người làm kỹ nghệ buôn bán tôm cá đông lạnh).
Thọ số của chúng sanh nơi ngục “Án phù đà” nầy như sau :
Ví như có người lấy một cái thùng đong lúa dung tích 40 lít (tức là bằng một giạ lúa) để đựng hạt mè.Có 20 thùng hạt mè như vậy.
Giả sử có một người sống lâu, cứ mỗi 100 năm đến lấy một hạt mè bỏ ra ngoài….Khi nào bỏ ra hết số hạt mè (của 20 thùng đó) thì gọi là một kiếp.
Thọ số của tội nhơn nơi ngục nầy bằng với số “Mè kiếp” như thế. -
Ngục NI LẠI PHÙ ÐÀ :(Còn có thêm tên gọi khác nữa là :NI THÍCH BỘ ÐÀ hay là BÀO PHÁO BỘ ÐÀ (Bào pháo tức là pháo nổ).
Hơi lạnh nơi ngục nầy gấp mười lần hơn sức lạnh của ngục ÁN PHÙ ÐÀ, những “ốc thịt” (vừa nói ở trên) vì bị sức lạnh quá cao như thế bức ngặt, nên toàn thể đều bị nổ tung ra hết, tựa như pháo nổ, tét da bày thịt, đầy khắp cả mình nhuộm máu……
Người bị đọa vào ngục nầy là vì khi còn sống gieo nhơn :
Giết hại thân mạng chúng sanh, xong rồi, banh da xẻ thịt ướp lạnh vào trong băng giá. (Những người chuyên buôn bán về kỹ nghệ thịt đông lạnh)
Thọ số của chúng sanh nơi ngục NI LẠI PHÙ ÐÀ nầy gấp 20 lần Thọ số của tội nhơn nơi ngục ÁN PHÙ ÐÀ.
hình phạt cả hai loại ngục nầy trực tiếp tác hại trên thân tướng của tội nhơn, do vì nơi thân tướng bị sức lạnh khắc nghiệt công phá làm cho biến đổi, tổn hoại mà thành danh (ÁN PHÙ ÐÀ và NI LẠI PHÙ ÐÀ). -
Ngục A LA LA :(Còn có thêm tên gọi khác nữa là ngục NGẠCH CHIẾT XÁ).
Hơi lạnh nơi ngục nầy làm cho toàn thân cứng đơ, hở môi chẳng đặng, chỉ còn có lưỡi (vì nằm trong miệng) bị sức lạnh ép ngặt nên tự nhiên khua động, phát sanh ra tiếng “A LA LA” (là loại tiếng rên la thống khổ ở địa ngục).
Thọ số của chúng sanh nơi ngục nầy gấp trăm lần Thọ số của chúng sanh nơi ngục NI LẠI PHÙ ÐÀ.
-
Ngục A BA BA :(Còn có thêm tên gọi khác nữa là :
- Ngục HOẮC HOẮC BÀ :
- Ngục A BÀ BÀ )
Hơi lạnh ở ngục nầy khiến cho cả mình cứng nhắc, chỉ còn có môi là khua động được, vang ra thành tiếng “A BA BA” (là loại tiếng rên la thống khổ nơi ngục hàn băng).
Thọ số của chúng sanh nơi ngục nầy gấp 100 lần Thọ số của tội nhơn nơi ngục A LA LA. -
NGỤC ẤU HẦU HẦU :(Còn có thêm tên gọi khác nữa là : Ngục HỔ HỔ BÀ).
Hơi lạnh nơi ngục nầy làm cho toàn thân cùng với môi và lưỡi đều bị đong cứng lại, chỉ còn có cổ họng (yết hầu) là run động được, phát sanh ra tiếng kêu “ẤU HẦU HẦU” (cũng là một loại tiếng rên la thống khổ khác nữa của tội nhơn nơi ngục hàn băng).
Thọ số của chúng sanh nơi ngục nầy gấp 100 lần Thọ số của chúng sanh nơi ngục A BA BA
Cả ba thứ địa ngục nầy (ngục A LA LA, A BA BA, ẤU HẦU HẦU) là căn cứ vào nơi “âm thanh rên khóc” thống khổ (tức là do nơi “thanh tướng”) mà thành danh. -
Ngục UẤT BA LA :(Còn có thêm tên gọi khác nữa là :
- Ngục ỔN BÁT MA.
- Ngục THANH LIÊN HOA (Hoa sen xanh).
Sức lạnh nơi ngục nầy gấp bội lần (so với sức lạnh của các ngục trước) nên khiến cho toàn thân da thịt của người tội đều hóa thành ra màu xanh (lạnh làm cho tái ngắt da thịt) và bị nứt bung ra thành từng mảnh lớn giống như “Hoa sen xanh” chớm nở (vì thế nên gọi là “Thanh Liên Hoa” ngục).
Thọ số của chúng sanh nơi ngục nầy gấp 100 lần Thọ số của tội nhơn nơi ngục ẤU HẦU HẦU.
-
Ngục BA ÐẦU MA :(Còn có thêm tên khác nữa là :
- Ngục BÁT ÐẶT MA.
- Ngục CÂU VẬT ÐẦU.
- Ngục XÍCH LIÊN HOA. (Hoa sen đỏ).
Hơi lạnh nơi ngục nầy làm cho da thịt, máu huyết và toàn thân đều cùng bị nổ bung ra, trông tựa như là bông sen đỏ nở lớn (vì thế nên gọi là “Xích LIÊN HOA” ngục).
Thọ số của chúng sanh nơi ngục nầy gấp 100 lần Thọ số của tội nhơn nơi ngục THANH LIÊN HOA. -
Ngục PHÂN ÐÀ LỢI :(Còn có thêm tên gọi khác nữa là :
- Ngục MA HA BA ÐẦU MA.
- Ngục BẠCH LIÊN HOA. (Hoa sen trắng).
Hơi lạnh nơi ngục nầy lên đến mức độ cùng cực, khiến cho toàn thân máu, thịt và xương tủy đều bị nổ tung ra, màu trắng của xương vụn hòa lẫn cùng với máu thịt….trông tựa như hoa sen trắng mãn khai (nở lớn) – (vì thế nên gọi là “Phân đà lợi” (Hoa sen trắng) ngục).
Thọ số của chúng sanh nơi ngục nầy gấp 100 lần Thọ số của tội nhơn nơi ngục BA ÐẦU MA.
Cũng như 8 sở chánh HỎA NGỤC (Ðã lược qua trong kỳ trước) – Nơi tám sở chánh HÀN NGỤC nầy thì :
- Mỗi sở đều có riêng 16 “DU TĂNG ÐỊA NGỤC” [2](tức là 16 sở ngục phụ) được phân đều ở bốn phương Ðông, Tây, Nam, Bắc của ngục chánh (mỗi phía có 4 sở ngục phụ).
- Các tội nhơn sau khi hoàn mãn thời gian thọ báo ở nơi Ngục chánh rồi, đều bị lần lượt chuyển qua thọ những khổ báo kế tiếp ở nơi 16 Ngục DU TĂNG nầy.
Khi mãn thời gian thọ báo nơi các “DU TĂNG HÀN NGỤC” nầy xong rồi, thì tội nhơn ấy bị đọa sanh vào địa ngục “HẮC ÁM” trong một trăm ngàn vạn năm (100 x 1.000 x 10.000).
Sở dĩ gọi là “HẮC ÁM” vì địa ngục nầy cực kỳ tối tăm, chúng sanh ở nơi ngục nầy hoặc là không có mắt, hoặc cũng có mắt nhưng không trông thấy chi cả !
Trong thời gian thọ báo ở ngục nầy tội nhơn phải bị chuyển sanh ra làm một thứ “đại trùng” (loài côn trùng giống như trùng đất), có thân thể rất lớn, bò đi quằn quại, các căn ám độn, không hiểu biết gì là phải quấy, bị cả trăm ngàn thứ hổ lang lôi kéo, cắn xé cơ thể.
Khi mãn thời gian thọ báo nơi ngục HẮC ÁM nầy rồi thì bị chuyển sanh vào :
-
Súc sanh đạo :
Làm thân các loại chim muông trong 5000 vạn năm (5.000 x 10.000).
Mãn kiếp chim muông mới được :
-
Sanh làm người :
Nhưng bị thọ lấy “dư báo” (nghiệp báo còn sót thừa lại), nên khiến cho thân thể phải chịu các cảnh đui, điếc, câm, ngọng, cùi hủi, ung thư, bần cùng, hạ tiện…trong trăm vạn đời, (100 x 10.000) không ai thèm đoái hoài đến cả.
Mãn kiếp làm người hèn hạ nầy xong rồi, phải bị :
-
Ðọa vào loài ngạ quỷ :
Trăm 1000 vạn năm (1000 x 10.000) phải chịu các cảnh đói khát, khổ sở cùng cực.
Ở trong “ngạ quỷ đạo” nầy đến khi mãn tội xong thời gặp được bậc đại Thiện tri thức như các vị Bồ tát (Ðịa Tạng vương Bồ tát) nói lời quở trách rằng:
“Ngươi ở trong vô lượng đời về trước đã tạo ra vô số tội ác như phỉ báng Tam Bảo, không tin nhơn quả….nên bị đọa vào trong địa ngục, chịu không kể xiết các sự đau khổ…. Nay ngươi phải nên phát tâm Niệm Phật”…….
Bấy giờ các ngạ quỷ nghe được lời giáo hóa ấy rồi, liền chấp tay xưng niệm :
NAM MÔ PHẬT, NAM MÔ PHẬT, NAM MÔ PHẬT.
Nhờ sức hồng ân và đại nguyện của chư Phật nên ngạ quỷ ấy liền được mạng chung, thần thức thác sanh lên cõi Trời Tứ Vương.
Nhân tiện, tôi cũng xin được y theo kinh giáo, trích dẫn ra đây một số ít các lời “Vấn đáp” của chư đại Bồ tát về địa ngục để làm phương tiện cho những ai vẫn còn có được ít nhiều căn lành cùng lòng tàm quý (biết thẹn hổ) như có duyên xem đọc đến, biết ăn năn, hối lỗi mà bỏ tâm chấp ngã, kiêu mạn, tự thị,… một cách sai lầm vào nơi
phước lực, quyền quý hoặc thông minh, mạnh khỏe….của cá nhân….phát lòng kinh sợ, bỏ dữ theo lành, quy đầu nơi Phật pháp, niệm Phật, tu hành, tích công, bòn đức…..ngõ hầu tránh thoát khỏi quả báo về sau nơi ba ác đạo.
……………………
“Lúc ấy, ngài PHỔ HIỀN đại Bồ tát, thưa cùng với ngài Ðịa Tạng VƯƠNG đại Bồ tát rằng :
Thưa nhơn giả, xin ngài vì Trời, rồng, Bát bộ cùng tất cả chúng sanh ở hiện tại và vị lai mà nói lên danh hiệu của những địa ngục là chỗ thọ báo của hàng chúng sanh bị tội khổ trong cõi Ta Bà cùng châu “Diêm Phù Ðề” (địa cầu) nầy, cùng nói về những sự quả báo không lành…. khiến cho chúng sanh ở thời-mạt pháp sau nầy, biết rõ những quả báo đó.
Ngài Ðịa Tạng VƯƠNG Ðại Bồ tát đáp rằng:
Dãy núi ấy tối thẳm không có ánh sáng của mặt trời, mặt trăng rọi đến. Trong đó có một địa ngục lớn tên là Cực Vô Gián….
- Lại có địa ngục tên là Ðại A Tỳ.
- Lại có địa ngục tên là Tứ Giác (Có 4 bức vách đầy đao kiếm ép chém thân thể).
- Lại có địa ngục tên là Phi đao (Ðao bén bay theo gió chém tội nhơn).
- Lại có địa ngục tên là Hỏa Tiễn (Tên lửa bay theo gió bắn đốt tội nhơn).
- Lại có địa ngục tên là Giáp Sơn (Núi ép lại nghiền-nát thân thể).
- Lại có địa ngục tên là Thông Thương (Thương (giáo) đâm nát thân thể).
- Lại có địa ngục tên là Thiết Xa (Xe sắt đỏ lửa, bắt tội nhơn ngồi lên).
- Lại có địa ngục tên là Thiết Sàng (Giường sắt đỏ lửa, bắt tội nhơn nằm lên).
- Lại có địa ngục tên là Thiết Ngưu (Trâu sắt cày nát thân thể).
- Lại có địa ngục tên là Thiết Y (Áo sắt nóng đỏ, bắt tội nhơn mặc vào).
- Lại có địa ngục tên là Thiên Nhẫn (Cả ngàn mũi nhọn đâm chém tội nhơn).
- Lại có địa ngục tên là Thiết Lư (Bắt ách lừa sắt nóng đỏ vào cổ tội nhơn).
- Lại có địa ngục tên là Dương Ðồng (Nước đồng sôi cho tội nhơn uống).
- Lại có địa ngục tên là Bảo Trụ (Bào lạc, cột sắt nóng đỏ, cho tội nhơn ôm).
- Lại có địa ngục tên là Lưu Hỏa (Lửa dữ bay theo đốt tội nhơn).
- Lại có địa ngục tên là Canh thiệt (ÐỊA NGỤC cày lưỡi).
- Lại có địa ngục tên là Tỏa Thủ (Chém đầu).
- Lại có địa ngục tên là Thiêu Cước (Ðốt chân tội nhơn).
- Lại có địa ngục tên là Ðạm Nhãn (Móc mắt tội nhơn).
- Lại có địa ngục tên là Thiết Hoàn (Ăn sắt viên nóng đỏ).
- Lại có địa ngục tên là Tránh luận (Cải cọ lẫn nhau, tức tối nổ tim mà chết).
- Lại có địa ngục tên là Thiết Thù (Mũ sắt, đội lên đầu).
- Lại có địa ngục tên là Ða Sân (Nóng giận, đánh chưởi lẫn nhau cho đến chết).
- Lại có địa ngục tên là Kiến Oán (Kêu la đau đớn vì bị thọ phạt quá thảm khổ).
- Lại có địa ngục tên là Bạt Thiệt (Kéo lưỡi tội nhơn).
- Lại có địa ngục tên là Phẩn Niếu (Nhận chìm xuống ao cứt đái bắt ăn uống).
- Lại có địa ngục tên là Ðồng Tỏa (Khóa đồng cháy đỏ xiềng tay chơn).
- Lại có địa ngục tên là Hỏa Cẩu (Chó lửa cắn xé tội nhơn).
- Lại có địa ngục tên là Hỏa Mã (Ngựa lửa đốt tội nhơn).
- Lại có địa ngục tên là Hỏa Ngưu (Trâu lửa đốt và dày đạp tội nhơn).
- Lại có địa ngục tên là Hỏa Thạch (Ðá lửa bay đánh tội nhơn).
- Lại có địa ngục tên là Hỏa Ưng (Chim Diều hâu lửa cắn, mỗ tội nhơn).
- Lại có địa ngục tên là Bác Bì (Lột da tội nhơn).
- Lại có địa ngục tên là Ẩm Huyết (Uống máu dơ, thúi).
- Lại có địa ngục tên là Ðảo Thích (Ðâm xóc ngược từ dưới lên trên).
- Lại có địa ngục tên là Hỏa Ốc (Nhà lửa nhốt giam tội nhơn).
- Lại có địa ngục tên là Hỏa Lang (Chó sói lửa cắn, xé thân thể).
…………………………
Ngài Ðịa Tạng VƯƠNG Ðại Bồ tát thưa cùng với Ngài PHỔ HIỀN Ðại Bồ tát rằng:
Vì thế cho nên chúng sanh chớ khinh thường các điều quấy nhỏ mà cho là không tội, sau khi chết rồi, thảy đều bị quả báo hết cả, dầu cho một mảy mún cũng không thể nào tránh khỏi được.
…..Ngài PHỔ HIỀN Ðại Bồ tát đáp rằng :
Dầu từ lâu tôi cũng đã rõ tội báo nơi ba ác đạo rồi, nhưng tôi muốn từ nơi nhơn giả nói ra, để làm cho những chúng sanh nào có tâm hạnh ác trong đời mạt pháp sau nầy, nghe được lời dạy của nhơn giả mà biết hối lỗi và quy hướng về nơi Phật pháp”.
…..Khi ấy, Thánh Mẫu MA DA Phu nhơn [3](là mẹ của Phật), chắp tay thưa cùng với Ngài Ðịa Tạng VƯƠNG Ðại Bồ tát rằng :
…..Thế nào là Vô Gián ÐỊA NGỤC ?(Tức là A Tỳ địa ngục)
Hai chữ A Tỳ nầy có rất nhiều thâm nghĩa khác nhau, nơi đây chỉ xin được nêu lên vài ba nghĩa mà thôi.
-
A có nghĩa là KHÔNG.
TỲ có nghĩa là NGĂN.
Cho nên A Tỳ tức là “không thể nào ngăn chận” sự thọ khổ độc được cả.
Lại nữa : -
A có nghĩa là KHÔNG.
TỲ có nghĩa là CỨU.
Cho nên A Tỳ tức là “không thể nào cứu” cho thoát khỏi năm sự thọ khổ Vô Gián (không ngừng) được cả.
-
A là KHÔNG GIÁN ÐOẠN.
TỲ là HẾT SỨC KHỔ NÃO.
Cho nên A Tỳ tức là “không gián đoạn” các sự thọ đại khổ độc và hình phạt.
Lại nữa ; -
A có nghĩa là LỬA DỮ [4](Ðại diệm).
TỲ có nghĩa là MÃNH NHIỆT (nóng dữ dội).
Cho nên A Tỳ có nghĩa là LỬA DỮ NHẬP TÂM.
Vì lửa dữ đã “nhập vào trong tâm tưởng rồi”, cho nên (tội nhơn ấy) không còn có phương cách nào cứu chữa được cả.
……………………
PHẬT dạy cùng với ngài A NAN rằng :
-
ÐỊA NGỤC A Tỳ ấy dài rộng bằng nhau, mỗi phía là 8 vạn do tuần.
Ngục nầy có :Bảy lớp thành bằng sắt bao bọc chung quanh.Bên ngoài bảy lớp thành sắt nầy lại còn có thêm :Bảy lớp lưới sắt bao bọc toàn thể ngục A Tỳ.
- Trong ngục ấy phân ra làm 18 ngăn trên và 18 ngăn dưới, mỗi mỗi ngăn ngục như vậy đều có 7 lớp thành sắt bao bọc, giữa mỗi lớp thành sắt đó đều có đặt các rừng đao kiếm bén, nhọn và độc dữ.
- Trong mỗi mỗi ngăn đó lại được chia ra làm 8 vạn 4 ngàn thứ lớp khác nhau.
-
Bốn góc của ngục A Tỳ đều có 4 con chó đồng cực lớn (Ðại đồng cẩu) thân dài đến 16.000 do tuần.
- Mắt của đồng cẩu ấy tỏa ra ánh sáng dữ độc dường như điện chớp.
- Răng bén như cây gươm.
- Nanh nhọn như núi đao.
- Lưỡi như dùi sắt nhọn.
- Toàn thể lông nơi thân của đồng cẩu ấy đều phun ra lửa dữ.
- Hơi độc trong miệng đồng cẩu ấy bay ra như khói mù, tỏa mùi hôi thúi khó chịu, trên khắp thế gian không một mùi hôi thúi nào có thể so sánh được cả !
- Chó “đồng cẩu” ấy có đến 64 con mắt, từ trong mắt phóng ra những hoàn sắt nóng to như chiếc xe sắt (thiết giáp).
- Răng của chó ấy cao đến 160 dặm, từ trên đầu răng tuôn ra “đại hỏa” (lửa lớn) đốt cháy các hoàn sắt nóng kia.
- Mỗi hoàn sắt bị đốt cháy đỏ ấy lại hóa thành một ức (100.000) con dao lửa, lưỡi bén nhọn, sáng ngời, từ trong các lưỡi dao ấy, tuôn ra thêm lửa dữ, cuồn cuộn như hỏa diệm sơn dâng trào, đốt cháy các vách thành của ngục A Tỳ đỏ rực như nước đồng sôi.
-
Lại còn có thêm 18 người ngục tốt (chủ ngục), đầu mặt ghê gớm như đầu mặt của quỷ la sát, miệng to rộng như miệng quỷ Dạ xoa.
- Mỗi ngục tốt ấy có 8 đầu y như đầu trâu (Ngưu đầu).
- Trên mỗi đầu đều có 18 cái sừng,
- Nơi mỗi đầu sừng ấy liên tiếp tuôn ra từng đống lửa lớn.
-
Mỗi đống lửa lớn ấy lại hóa thành ra bánh xe đao bén lớn.
Như thế lần lượt có đến cả : - vô lượng “bánh xe đao” (đao luân) nối nhau quây chạy, bay theo lửa dữ chém đốt tội nhơn, đầy khắp cả ngục A Tỳ.
-
Còn ở trên mặt đất thì có :
- Chó đại “đồng cẩu” há miệng, le lưỡi bén nhọn như đòn xóc, phun ra vô số lửa dữ.
- Từ nơi lưỡi ấy lại còn hóa ra thêm vô lượng lưỡi khác, tất cả các lưỡi ấy thảy đều phun ra lửa dữ, cháy đầy khắp hết cả A Tỳ địa ngục.
- Ở trong bảy lớp thành sắt còn có thêm bảy lớp cờ, nơi đầu của mỗi lá cờ lửa dữ hòa lẫn với nước sắt nóng cháy đỏ cuồn cuộn tuôn ra, chảy đầy khắp các nơi trong A Tỳ ngục.
- Nơi 4 cửa thành của A Tỳ ngục, ở trên mỗi ngưỡng cửa đều có 18 chảo lớn chứa nước đồng sôi, nước ấy tuôn trào ra bất tận và chảy xối xuống không dứt, tràn đầy khắp cả ngục A Tỳ.
-
Trong mỗi mỗi ngăn (của 18 ngăn ngục) lại có 84 ngàn con đại mãng xà bằng sắt (thiết mãng xà), thân lớn đầy chật khắp cả ngăn thành, miệng phun ra hơi độc và lửa dữ, thốt lên tiếng kêu rống ghê sợ, to như sấm dậy.
Từ trong hơi khói độc ấy tuôn bay ra các hoàn sắt nóng đỏ, mỗi hoàn sắt ấy to lớn như quả đồi cháy đầy khắp cả ngục A Tỳ.
-
lại có 500 ức (500 x 100.000) thứ đại trùng khác ở trong thành, mỗi con trùng như thế có đến 84 ngàn mỏ nhọn.
Trùng ấy phóng bay lên xuống, mỗi lần trùng ấy bay lên và rơi xuống thì lửa dữ ở trong ngục A Tỳ bùng cháy lên dữ dội, ánh lửa hừng hực, sáng lòa, hơi nóng độc ghê gớm và ánh sáng của lửa dữ ấy chiếu xa ra đến 336 vạn dặm (336 x 10.000).
-
Hơi lửa nóng dữ của A Tỳ địa ngục ấy còn xông lên trên biển cả, khiến cho nước biển sôi trào bay lên và rơi xuống.
Mỗi giọt nước lớn bằng trục bánh xe, hóa thành ra gươm giáo bén nhọn rơi xuống như mưa, bay theo lửa dữ, đầy khắp cả ngục A Tỳ……
Tóm lại :
- Nổi khổ trong ngục A Tỳ có đến “tám vạn ức thiên” (tức là nhiều vô lượng).
- Bao nhiêu “các nổi thống khổ của những sự thống khổ”- (tức là cực đại thống khổ) – thảy đều tích tụ hết ở trong A Tỳ đại địa ngục nầy
………………………………………
TƯỚNG TRẠNG TIÊN TRIỆU ÐỌA SANH VÀO A Tỳ ÐỊA NGỤC CỦA tội nhơn
Có nhiều tướng trạng báo trước (tiên triệu) cho tội nhơn phải bị đọa sanh vào trong ÐỊA NGỤC A Tỳ.
…..PHẬT bảo cùng với ngài A NAN rằng :
-
Như có chúng sanh nào :
- Giết cha, hại mẹ vv… (Tức là tạo đủ tội ngũ nghịch, thất nghịch).
- Nhục mạ 6 bề thân (tức là hủy nhục, mạ lỵ, đánh giết… các hàng lục thân quyến thuộc)….
Thì người ấy khi mạng chung rồi :
- Chó “đồng cẩu” há miệng, hóa ra làm 18 chiếc xe trang nghiêm, xinh đẹp, lộng lẫy, giống như xe vàng của cõi trời, trên xe ấy có lọng báu (bảo cái) che lên.
- Hết thảy lửa dữ, gươm đao… đều hóa thành ra Ngọc nữ (gái cõi trời), nhan sắc cực kỳ xinh đẹp.
tội nhơn ấy, do vì bị nghiệp A Tỳ địa ngục chiêu cảm nên ở xa trông thấy (ảo cảnh như thế), sanh tâm vui mừng, tự nghĩ rằng :
Ta muốn đến đó chơi, ta muốn đến đó chơi.Nghĩ vừa xong, thần thức liền bay lên xe ấy.
Khi ngồi lên xe rồi thì bị phong đao (gió lạnh bén nhọn như gươm) bay đến xẻ thân, lạnh lẽo không sao chịu thấu.Bấy giờ tội nhơn ấy lại nghĩ :
Lạnh quá, lạnh quá, ta muốn làm sao cho có lửa để sưởi ấm.Nghĩ như thế xong liền chết.
Trong giây phút sống lại, thấy mình ngồi trên xe vàng đó, mắt ngắm xem các Ngọc Nữ, nhưng bị những Ngọc Nữ ấy tay cầm búa sắt chém xả vào thân, trong búa ấy lại tuôn ra lửa dữ hừng hực thiêu đốt.Trong thời gian lẹ như một cái nháy mắt….thần thức của kẻ ấy liền bị rớt ngay vào trong A Tỳ địa ngục….
……………………….. -
Người phạm tội ngủ nghịch…
Khi lâm chung bị 18 thứ phong đao [5] bay đến cắt xẻ thân thể, đau nhức, nóng bỏng, dường như bị lửa thiêu đốt. tội nhơn ấy do vì bị nóng bức như thế, nên phát tâm nghĩ rằng :Nếu có các thứ cây đại thọ mát mẻ, hoa sắc tươi đẹp, ta sẽ đến đó dạo chơi, há không vui thích hơn sao Vừa nghĩ thế xong thì liền có 84.000 thứ rừng “ác kiếm” (kiếm bén, đao độc) hóa thành ra cây báu, hoa quả tốt tươi, sắp đặt thẳng hàng, bày ra trước mắt, lửa nóng hừng hực hóa ra làm hoa sen đẹp đẽ ở nơi các gốc cây….
Tội nhơn ấy thấy như vậy liền nghĩ thầm rằng:
Ta đã được mãn nguyện, ta đã được mãn nguyện.Do nơi nghiệp địa ngục A Tỳ chiêu cảm, cho nên chỉ trong một nháy mắt tội nhơn ấy liền thấy mình ngồi lên trên các hoa sen đó.Vừa ngồi xong thì có vô số các loài trùng mỏ nhọn từ trong hoa sen lửa chui ra, rút vào cơ thể, gặm nhắm cốt tủy, khiến cho đau thấu tâm can.
tội nhơn oằn oại, dùng tay vịnh cành cây đứng dậy thì các cành cây ấy liền hóa thành ra đao kiếm bén độc, róc thịt, chẻ xương. Trên không trung lại có thêm vô lượng đao luân (vòng tròn có gắn dao bén độc) rơi xuống chém nát thân thể người tội.Những lò lửa, xe lửa, vv…..cùng với 18 điều đại khổ độc khác nơi A Tỳ địa ngục đồng thời đưa đến…..
thần thức của tội nhơn liền bị rớt ngay xuống 18 ngăn ngục ở phía dưới….………………………..
-
Lại nữa,
Nếu có người nào :
- Phá hủy cấm giới của Phật.
- Luống dùng của tín thí.
- phỉ báng Tam Bảo, kinh đại thừa, phương đẳng.
- Tà kiến, tà luận, tà thuyết….
- Bất tín nhơn quả, tội báo.
-
Khinh hủy 10 phương chư Phật…
vv……………..
Người đó khi sắp lâm chung, bị phong đao xẻ thân…..nằm ngửa (trên giường bệnh), bất tỉnh, cả mình đau nhức như bị đánh đập.
……Ðầu óc, tư tưởng của kẻ ấy trở thành ra hoang mang, si mê, lầm lẫn.Bấy giờ, kẻ độc đó thấy nhà cửa, đồ vật, con cái nam, nữ lớn nhỏ, cùng với tất cả mọi thứ chung quanh mình đều trở thành bất tịnh, tiểu dãi hôi thúi, tràn đầy thân thể……
Bấy giờ người ấy nghĩ rằng :Sao ở đây không có thành quách và núi rừng tốt đẹp để cho ta đến dạo chơi mà lại phải bị ở giữa các thứ bất tịnh, hôi thúi nầy làm gì Vừa nghĩ xong…….Bấy giờ ngục tốt liền lấy chùy sắt đánh vào nơi thành vách của ngục A Tỳ, vang ra tiếng lớn, khiến cho :
- Các rừng ác đao, ác kiếm thảy đều hóa thành ra cây báu cùng ao hồ mát mẻ.
- Lửa dữ hóa ra làm sen vàng.
- Những loài trùng mỏ nhọn hóa thành ra các loài chim phù nhan (giống như chim nhạn).
-
Những tiếng la thống khổ của tội nhơn trong địa ngục đều hóa thành ra các âm thanh ca ngâm trong trẻo.
……………………
tội nhơn ấy trông thấy các (ảo) cảnh tốt đẹp như vậy rồi liền nghĩ thầm rằng :Ta đã được mãn nguyện, vậy hãy mau đến đó dạo chơi.Trong chớp mắt liền thấy mình ngồi trên hoa sen lửa liền đó :- Các loài trùng mỏ nhọn theo lỗ chân lông của tội nhơn, tuôn vào trong thân thể cắn rứt xương tủy, gan ruột.
- Trăm ngàn bánh xe sắt cắm đầy đao kiếm (đao luân) đỏ rực lửa dữ từ trên không trung rơi xuống đánh vào nơi thân thể.
- Hằng hà sa số hoa sắt nhọn bay đến móc lấy tròng mắt.
- Chó “đồng cẩu” trong ngục hóa ra làm trăm ngàn ức chó sắt khác nữa giành nhau cắn xé thân thể tội nhơn, moi lấy trái tim mà ăn.
Trong thời gian mau bằng một cái nháy mắt, thân thể tội nhơn ấy đã bị nát tan ra như những cánh hoa bằng sắt, tràn đầy khắp 18 ngăn ngục.
Trên những cánh hoa sắt ấy đều có đầu mình, tay, chân cùng các chi tiết thân thể của tội nhơn rơi rảy ra cùng khắp.…………………………..
Tội nhơn ấy liền bị rớt vào trong 18 ngăn chánh của ngục A Tỳ….. -
Từ ngăn trên, thần thức (của tội nhơn đó) chớp mắt bị đọa xuống ngăn dưới, do ác nghiệp chiêu cảm nên tự thấy thân mình lớn đầy chật khắp cả ngục.
Chó “đồng cẩu” liền xông đến, lớn tiếng gầm rống và cắn lấy thân thể tội nhơn, nhai xương, nuốt tủy.
tội nhơn liền chết đi.
Bấy giờ quỷ tốt lấy chày sắt đánh xuống đất vang ra tiếng lớn mà kêu lên rằng : “SỐNG DẬY, SỐNG DẬY” Tội nhơn hoàn-phục thân thể lại y như cũ.Ngục tốt ấy liền cầm lấy chĩa ba rực lửa vít vào nơi thân, bắt đứng dậy.
Liền đó tội nhơn bị lửa dữ đốt thân, dao kiếm bén bay theo lửa độc theo lỗ chân lông vào trong thân thể, hóa thành ra vua Diêm Vương. Vua ấy lớn tiếng quát mắng rằng :“Ðồ ngu si, giống địa ngục kia.Khi ngươi còn ở trên dương thế tạo đủ ngũ nghịch tội,….tà mạng, vô đạo đức, làm đủ các thứ tội ác, nên nay phải bị đọa vào chỗ nầy, gọi là A Tỳ đia ngục.Ngươi là người không biết ơn, không lòng thẹn hổ….
Nay phải thọ lãnh các thứ quả báo đại khổ độc nầy.Có sướng hay không ”
Nói xong liền biến mất. -
Bấy giờ, ngục tốt lại xua đuổi tội nhơn từ những ngăn ngục dưới lên đến các ngăn ngục ở trên….
Phải trải qua 84.000 ngăn ngục ở giữa mới qua khỏi được lớp lưới sắt cuối cùng.
Một ngày đêm nơi địa ngục A Tỳ dài bằng 60 tiểu kiếp [6]
tội nhơn ấy sống và thọ khổ trong A Tỳ địa ngục đến 84.000 đại kiếp. -
Lên đến ngăn trên rồi, tội nhơn thấy thân hình của mình lớn ra đầy chật hết cả 18 ngăn ngục (ở trên) ấy, bị vô lượng sự khổ độc thiêu đốt, thảm khổ không sao tả cho xiết được.
Vì là người phạm tội “ngũ nghịch, thất nghịch” cho nên bị vạn ức chảo nước đồng sôi, trăm ngàn đao luân (vòng dao) từ trên không bay xuống, các đao độc ấy chun vào nơi đầu, tuôn ra nơi chân…..
Sự đau khổ còn gấp trăm, ngàn lần hơn 18 ngăn ngục dưới….
tội nhơn bị thọ báo ở nơi đây 5 đại kiếp.
(Kỳ sau tiếp)
[1]– thân thể : chúng sanh ở địa ngục không có “thân thể tứ đại” như người sống, mà chỉ có thân thể cấu tạo bằng năm ấm (Sắc, thọ, tưởng, hành, thức) cực kỳ vi tế. Gọi là thân “thần thức” mà thôi.
[2]– DU TĂNG ÐỊA NGỤC :
- Du là đi qua.
- Tăng là tăng thêm (các sự thọ khổ).
Tức là : Cứ mỗi lần đi qua một ngục “DU TĂNG” như vậy thì sự thọ khổ lại càng tăng thêm hơn lên.
[3]– MA DA Phu nhơn : là một vị đại Bồ tát ở “Bất tư nghì cảnh giới giải thoát” (của hàng đẳng giác Bồ tát) thị hiện ra thân người nữ để làm mẹ của Bồ tát Sĩ Ðạt Ta (Shidharta) tức là Phật THÍCH CA chớ Bà không phải là một người nữ thông thường như những người nữ khác đâu.
Ðây cũng là một trong những “ đại thiện phương tiện” của chư Bồ tát và chư Phật.
Sở dĩ gọi là “lửa dữ” là vì ba thứ lửa nầy có sức đốt tiêu hết tất cả các công đức trí huệ và “thất thánh tài” của chúng sanh trong ba cõi.
(Thất thánh tài là : TIN (đức tin), TẤN (tinh tấn), TÀM QUÝ ( hổ thẹn với mình và người). ÐA VĂN (học rộng), XẢ (tâm xả bỏ, tha thứ), ÐỊNH (Thiền định), HUỆ (trí-huệ).
[5]– PHONG ÐAO : Gió lạnh buốt (còn gấp mấy lần hơn gió lạnh ở miền Bắc Cực) chạm đến làm cho cả mình đau nhức dường như bị dao bén cắt xẻ thân thể.
Bình luận