- Trong phần thư này giải đáp vấn đề làm sao để được đới nghiệp vãng sanh…Nếu như cứ tu niệm lai rai rồi chờ đến ngày già bệnh hay cái chết tới gần rồi mới thỉnh cầu minh sư, thiện hữu đến hộ niệm thì việc này nên hay không nên?
- Chuyện kể về nghiệp lành kiếp trước đã đến thời kỳ thành thục…
Qua bức thư số 56 vừa rồi, nhân khi giảng đáp về sự ích lợi không thể nghĩ bàn được của việc “ÐỚI NGHIỆP VÃNG SANH” và sự “HỘ NIỆM ÐÚNG PHÁP” trong TÔNG MÔN Tịnh Ðộ. BẢO ÐĂNG đã có kể qua về sự “Ðới nghiệp VÃNG SANH” của một người
Phật tử VIÊN ÐỨC TRẦN PHƯƠNG NỮ để làm tín chứng, nên sau đó có một số “thư gởi” và “điện thoại” từ quý Phật tử, Bổn đạo ở một vài nơi có “Tu” Tịnh Ðộ gởi đến cùng gọi về bổn tự để hỏi thêm việc :
…….“Tu lai rai như thế, mà qua sự “HỘ NIỆM” cũng được VÃNG SANH sao ? ….
……..“Nếu được như thế, thì bây giờ đâu cần NIỆM PHẬT làm chi cho nhiều, cứ việc tu “lai rai” như Bà VIÊN ÐỨC nầy, rồi chờ khi nào đến lúc bịnh nặng, thỉnh bậc Minh sư, thiện hữu đến “HỘ NIỆM”, chắc cũng sẽ được VÃNG SANH CỰC LẠC như Bà TRẦN PHƯƠNG NỮ nầy…..vậy.
Việc ấy có nên, có đúng hay chăng ? ”…..
(Và còn nhiều lời “hỏi” khác nữa, nếu như thuận tiện….BẢO ÐĂNG sẽ lần lượt giải đáp qua những kỳ “Thư Học Phật” sau )….
………………………………
PHẦN “ÐÁP GIẢNG”……
Vì thấy có những lời “HỎI” sai lầm như thế, nên trong kỳ “thư” nầy BẢO ÐĂNG cần phải giải rõ hơn nữa về việc “NIỆM PHẬT” và sự “ÐỚI NGHIỆP VÃNG SANH”, để trừ những nghi lầm về sau, hầu sách tấn qúy “liên hữu” và chư Bổn đạo, Phật tử khắp nơi, đang đồng tu về PHÁP MÔN Tịnh Ðộ, nhân đây được thêm ít nhiều sáng tỏ….
Như sau :
Tuy nói là nhờ ở nơi sự “HỘ NIỆM ÐÚNG PHÁP” mà được cảnh “ÐỚI NGHIỆP VÃNG SANH” đối với người “NGHIỆP” nặng và chỉ có tu niệm “RAI LAI” (tức là một ngày Tu, năm mười ngày (hoặc có khi cả tuần, cả tháng… bỏ lơ, biếng trễ, không tu…..)
Khởi sanh ra những “ý niệm” sai lầm rằng :
- Nếu việc “ÐỚI NGHIỆP VÃNG SANH” mà có ích lợi thắng diệu như vậy, thì bây giờ mình cứ “tu niệm lai rai” cho qua ngày, đoạn tháng, chờ đến ngày già, bệnh, hoặc thấy gần chết rồi, chừng đó sẽ :
-
Hoặc là “niệm PHẬT” từ 10 câu đến 100 câu.
(Tức ý là nói niệm PHẬT từ 1 “niệm” đến 10 “niệm”)
-
Hoặc là mời thỉnh các bậc “Thiện Tri Thức” đến “HỘ NIỆM”
(Như trường hợp của Bà VIÊN ÐỨC TRẦN PHƯƠNG NỮ kia), thì chắc chắn là :
Cũng được dự vào trong cảnh “ÐỚI NGHIỆP VÃNG SANH” vậy (!!!).
Ðể minh chánh và trừ diệt những “QUAN NIỆM” sai lầm nghiêm trọng cùng loại như thế, nên BẢO ÐĂNG xin được “minh giải” thêm về vấn đề nầy như sau :
Phải biết kẻ phàm phu nghịch ác – (như chúng ta đây) khi “lâm chung” mà biết (và có) NIỆM PHẬT được, là do vì kiếp trước đã có “căn lành” lớn, nên đời nay mới khiến cho gặp được Bậc “THIỆN Tri Thức” chỉ bảo, dẫn dắt và “HỘ NIỆM” cho, vì thế mà mới được :
CHẲNG PHẢI LÀ AI CŨNG “CÓ” VÀ “GẶP” ÐƯỢC ÐÂU.
Trong KINH LUẬN (Quyển QUẦN NGHI LUẬN) vì muốn phá trừ các QUAN NIỆM sai lầm (như trên) nên TỔ SƯ từng có lời dạy rằng :
Ấy là :
- Khó gặp “bạn lành” (tức là “thiện hữu”) – vì thế mà (khi lâm chung) không có “Người” khuyên nhắc, hướng dẫn, do đó nên không “biết” và NGHĨ “nhớ” đến việc cần phải “NIỆM PHẬT”.
- Ðau bịnh, bị “nghiệp chướng” hành khổ cả “THÂN” lẫn “TÂM”, nên không an ổn, rổi rãnh để “NIỆM PHẬT” được.
- Trúng phong “á khẩu” (câm), hoặc bị cứng miệng, nói không thành tiếng, nên không thể nào “NIỆM PHẬT” được.
- Cuồng loạn (điên khùng) mất sự sáng suốt, nên không còn nhớ biết và tỉnh táo để “NIỆM PHẬT” nữa.
- Thình lình gặp phải tai nạn nước (trôi), lửa (lớn cháy), bấn loạn cả tinh thần, nên không thể nào “NIỆM PHẬT” được.
- Bỗng nhiên bị ác thú (như cọp, beo …..) vồ bắt lấy ăn thịt, (vì kinh hòang, sợ hải và tán loạn Tâm Trí) – nên không thể nào “NIỆM PHẬT” được.
- Bị Tổn hữu, ác đảng, ác nhơn phá hoại lòng “TIN”, nên (không còn có sự “tin tưởng” nữa, dĩ nhiên là) không thể nào “NIỆM PHẬT” được.
- Bị “hôn mê” (bất tỉnh) – mà chết. Do vậy nên cũng không thể nào “NIỆM PHẬT” được.
- Thoạt chết “bất đắc kỳ tử” [1] giữa quân trận. Nên không thể nào “NIỆM PHẬT” được.
- Từ nơi chỗ cao (như đỉnh núi cheo leo, cao vút, hiểm trở) té xuống (lúc bị hốt hoảng, kinh sợ như thế) nên cũng không thể nào “NIỆM PHẬT” được.
Nay Ta cứ bình tâm mà suy nghiệm kỹ lưỡng lại rằng :
Như 10 trường hợp “bất khả NIỆM PHẬT” trên đây, trong cuộc đời nầy không lúc nào, chỗ nào mà chẳng có, bất luận là “TĂNG” hay “TỤC”, NAM, NỮ, LÃO, ẤU, SANG, HÈN….có “TU” hoặc “KHÔNG TU”…… tránh khỏi được.
Ðó là tại sao ?
-
Do nơi “TÚC NGHIỆP” – (“NGHIỆP TỘI” đã gây tạo ra trong những kiếp đời quá khứ lâu xa) – chiêu cảm ra vậy.
Hoặc là :
- Do nơi “HIỆN NGHIỆP” – (“NGHIỆP TỘI” gây tạo ra trong kiếp đời hiện tại (nầy) chiêu cảm, Nên “NÓ” (10 loại “tai nạn không lường” kể trên) :
- Bỗng nhiên xảy ra một cách đột ngột (Thình lình), không thể nào trốn tránh cho kịp.
Bây giờ “TA” hãy đặt “MÌNH” lỡ bị ở vào trong một, hoặc 2, 3, 4…..hoàn cảnh (vừa nêu như trên đi),….thử hỏi :
Hoặc:
Thì:
Hay là cũng sẽ bị :
(Trước sự những tử vong đáng ghê sợ ấy)
Rồi :
Chẳng hạn như trường hợp của Ưu Bà Di VIÊN ÐỨC TRẦN PHƯƠNG NỮ mà BẢO ÐĂNG kể để làm tín chứng trong “Thư Học PHẬT” số 56 vừa rồi.
Sở dĩ mà BÀ có cái MAY MẮN trong muôn một, được “HỘ NIỆM” ÐÚNG PHÁP VÀ ÐƯỢC “Ðới nghiệp VÃNG SANH” đó là bởi vì BÀ “hội ngộ” được mấy điều kiện như sau :
Ðiều thứ nhất :
Trước hết :
-
“Bạn lành” (thiện hữu) của đời BÀ là hai người con gái biết “ÐẠO”, và cũng có ít nhiều sự “TU” hành (lai rai), đó là :
- Thứ Nữ tên HUỲNH TÚ TRÂN,
- Út Nữ tên HUỲNH VĂN PHỤNG [2]
Kế nữa là “CỤ” gặp được Bậc :
- “THIỆN Tri Thức” (là BẢO ÐĂNG), đã kiên nhẫn làm một người HỘ NIỆM “ÐÚNG PHÁP” – (và lợi dụng tất cả giờ phút sau cùng còn lại trong một đời của Bà “CỤ” trên cõi thế nầy, suốt trong 3 tuần lễ dài để “HỘ NIỆM”) – do vậy mà “BÀ CỤ” mới được cảnh HÂN HẠNH “Ðới nghiệp VÃNG SANH” mà thôi.
Tại sao ?
-
Bà bị “lâm” vào điều thứ 2/10 (của TỔ SƯ dạy trong quyển “QUẦN NGHI LUẬN” ở trước).
(Là “đau bịnh” làm khổ THÂN, TÂM, nên không an ổn được mà “NIỆM PHẬT”).
-
Ðiều thứ 3/10 là : Trúng phong “á khẩu”, cứng họng, không còn nói được ra tiếng nữa.
(Nên BÀ không NIỆM PHẬT được câu nào trong những giờ phút sau cùng cả )
(Mà BÀ chỉ dùng “TAI” và lòng “chí thành” để nghe câu “NIỆM PHẬT HỘ NIỆM” mà thôi).
-
Ðiều thứ 8/10 là :
Bị “Hôn mê” mà chết.
(Bà bị “Hôn mê bất tỉnh” suốt 2 tuần lễ đầu, nằm thiêm thiếp như người đã chết. Ðầu tuần lễ thứ ba, nhờ thần lực “Hộ trì (và) tiếp dẫn” của Ðức PHẬT A DI ÐÀ (qua câu “NIỆM PHẬT HỘ NIỆM”) chiêu cảm, nên Thần thức (thứ 6 và thứ 8) BÀ mới dần dần tỉnh lại – (Ðể sửa soạn VÃNG SANH).
(Theo lời của Thượng Tọa Bổn Sư THÍCH HẢI QUANG nói thì :
Vì BÀ làm nghề “RESTAURANT”, tức là chuyên về NGHIỆP “Buôn bán máu thịt của chúng sanh” mà làm phương tiện để sinh sống cho bổn thân và gia đình, nên bị :
Vì thế nên BẢO ÐĂNG mới quả quyết sự “ÐỚI NGHIỆP VÃNG SANH” của CỤ là trường hợp “HY HỮU” trong muôn một vậy.
Sở dĩ được như thế là vì – (theo như trong KINH, LUẬN dạy) trong quá khứ “BÀ” đã từng có gieo trồng căn lành với PHẬT PHÁP, nhất là chắc cũng đã từng có ít nhiều tu theo Tịnh Ðộ GIÁO MÔN rồi, cho nên kiếp nầy dù rằng BÀ tu hành, NIỆM PHẬT lai rai, nhưng vẫn được cảnh MAY MẮN Ðới nghiệp VÃNG SANH “Hy Hữu” đó mà thôi.
Lại nữa, nếu như AI làm Người chân thật Phật tử, nghĩa là có tu học PHẬT PHÁP, (vì) sớm đã nhận biết rõ rằng :
Còn :
Thì chớ nên bao giờ QUAN NIỆM sai lầm – (một cách “THIỆP Ý” theo LÝ KINH nói) rằng :
Ðây là một QUAN NIỆM “cực kỳ sai lầm” :
Tại sao ?
Người Phật tử (có học hiểu và) tu hành theo PHÁP MÔN Tịnh Ðộ cần phải “biết” và “nhớ” rõ rằng :
“Thị nhơn chung thời,
Tâm bất điên đảo,
Tức đắc VÃNG SANH,
A DI ÐÀ PHẬT,
CỰC LẠC QUỐC ÐỘ”…..
Nghĩa là :
Nhưng Ta hãy nghĩ kỹ lại rằng :
Cho nên : ÐỪNG CÓ QUÁ Ỷ LẠI, XEM THƯỜNG. (Không nên)
Nhân lúc còn sanh thời và đang mạnh khỏe, mà không chịu tinh chuyên dụng công NIỆM PHẬT, trái lại chỉ TU lơ là, biếng trễ – (như một ngày tu, mươi bửa, nửa tháng bỏ dở) – thì đến lúc mạng chung :
- Bốn đại – (Ðất, Nước, Gió, Lửa) – nơi thân thể phân ly, sức “NGHIỆP” lớn nhỏ, xưa nay (“TÚC NGHIỆP” và “HIỆN NGHIỆP”) dồn dập.
- Thân tâm bị nhiều nổi khổ đeo theo bức bách, làm cho TÂM Kinh sợ, mê loạn…..đi.
Chừng ấy :
Huống chi là :
Tóm lại :
Lúc bình thời (tức là đang khi còn sống), phải “tinh chuyên” NIỆM PHẬT (cho nhiều),
Gắng tu TINH TẤN nhiều thêm nữa, nếu như NIỆM PHẬT được đến mức “NHỨT TÂM BẤT LOẠN” thì trên cõi đời nầy không còn gì qúy hơn được nữa.
Chỉ “chờ” cho khi nào bị bệnh, sắp chết, rồi mới chịu “NIỆM PHẬT”, thì e cho quá trễ tràng và để hối hận về sau mà thôi.
Bởi vì trên “lý thuyết” của Tịnh Ðộ PHÁP MÔN mà trong KINH đã “dạy”, “NÓI”, thì đương nhiên là suốt thông, nhưng trên “sự thật” của giờ phút lâm chung thì :
Cho nên :
“TỔ SƯ” từng có lời dạy “qúy báu” rằng :
Bởi vì :
(Nghiệp xảy ra lúc gần chết)
Nếu như lúc bình thường không chịu cố gắng “HẠ THỦ CÔNG PHU” câu niệm NAM MÔ A DI ÐÀ PHẬT cho thuần thục, thì khi “CẬN TỬ” (lúc gần chết) bị sức “CẬN TỬ NGHIỆP” lôi kéo, lấn áp, “CHÁNH NIỆM” vì thế không thể nào “phát hiện” ra được, do đó mà :
Thuở xưa, có một vị Phật tử cư sĩ tên là HOÀNG HẬU GIÁC, bình thường Ông cũng có Tu theo Tịnh Ðộ, ưa làm các việc “PHẬT SỰ”, nhưng lúc sanh thời, công khóa tu hành rất lơ là, biếng trễ, nay có, mai không !!
Ðến khi sắp chết, “CẬN TỬ NGHIỆP” hiện ra, làm cho Ông tự nhiên “ghét” câu NIỆM PHẬT và “ghét” nghe tiếng “NIỆM PHẬT” – (HỘ NIỆM) lại còn thêm :
Vì thế mà khi Ông qua đời, có triệu chứng rất là xấu (đáng sợ).
Về sau, có người đem trường hợp nầy thưa hỏi lên Tổ Tịnh Ðộ thứ 13 là NGÀI ẤN QUANG ÐẠI SƯ, thì TỔ “phán định” rằng :
- “Ðó là do “NGHIỆP ÁC” từ nhiều kiếp trước đến nay tập hợp lại, nhứt là NGHIỆP “BỎN XẺN LỜI NÓI”, thấy người khác :
-
Ði đến chỗ chết, biết rõ mà ngoảnh mặt làm ngơ, chớ không chịu nói lên lời khuyên ngăn.
Khi tướng “CẬN TỬ NGHIỆP” nầy hiện ra (như thế), tất phải BỊ ÐỌA VÀO TRONG LOÀI NGẠ QỦY” (!!!).
Củng chính vì “Ý” nầy, nên khi xưa, lúc còn tại thế, PHẬT có lần hỏi đến Ngài “A NAN ÐÀ” rằng :
-
“Nầy A NAN,
-
Có người suốt đời làm “lành”, mà khi chết bị : ÐỌA VÀO TRONG ÐỊA NGỤC
Lại có kẻ :
- Suốt đời làm “ác”, mà khi chết lại : ÐƯỢC SANH LÊN CÕI TRỜI, CÕI PHẬT…. Ngươi có biết Tại sao không ?
-
Có người suốt đời làm “lành”, mà khi chết bị : ÐỌA VÀO TRONG ÐỊA NGỤC
-
Ngài A NAN thưa rằng :
Bạch, Con không biết, xin nhờ Ðức THẾ TÔN từ bi chỉ dạy cho.
-
PHẬT nói :
Kẻ làm “lành” mà khi chết bị “đọa” vào trong “ÐỊA NGỤC” ấy là bởi vì :
NGHIỆP “LÀNH” ÐỜI NAY CHƯA – (Ðến Thời kỳ) THÀNH THỤC
Mà:NGHIỆP “ÁC” TRONG (nhiều) KIẾP (trước) KHÁC ÐÃ TỚI LÚC “CHÍN MÙI”.
Còn Kẻ làm “ÁC” (đời nay) mà khi chết được “sanh” lên cõi TRỜI, CÕI PHẬT.Ấy là :
NGHIỆP “ÁC” ÐỜI NAY CHƯA “CHÍN MÙI”Mà :
NGHIỆP “LÀNH” (nhiều) ÐỜI TRƯỚC ÐÃ ÐẾN Thời kỳ “THÀNH THỤC”Phải biết :
Nghiệp quả “LÀNH” hoặc “DỮ” trong nhiều đời xen nhau mà phát hiện, cũng như :Mối “NỢ” nào mạnh, thì : “NÓ” kéo lôi mình (chúng ta) trước” vậy….
Ðến đây, BẢO ÐĂNG xin được kể lại vài chuyện về việc :
“NGHIỆP LÀNH KIẾP TRƯỚC ÐÃ ÐẾN Thời kỳ “THÀNH THỤC” để làm “tín chứng” như sau :
I/- cư sĩ NGÔ MINH HỒNG.
PHƯỚC đến truyền thọ Tam Quy Ngũ giới cho mình.
Sau khi thọ quy giới xong, Ông ngồi xuống chắp tay “hô lớn” ba lần : “Mau thoát ly !”
Khi người nhà còn đang vây quanh, cùng hàng xóm hay tin chạy tới thăm, thì cư sĩ bỗng mở mắt ra bảo :
Vậy xin khuyên các vị nên cố gắng tu hành !”
Nói xong, bảo người nhà đem một chậu nước lại, soi mặt nhìn chăm chú vào trong :
“Ðời nay là NGÔ Thúc Bảo, (chớ) kiếp trước là “TỪ HÒA THƯỢNG” !
Vui thay !
Lúc ấy mùi hương lạ phát ra đầy nhà.
(Lời “phụ” của BẢO ÐĂNG) :
Như trường hợp VÃNG SANH CỰC LẠC của cư sĩ Phật tử NGÔ Thúc Bảo đây, thì Ta nhận xét thấy rằng :
Có lẽ khi xưa vị “TỪ HÒA THƯỢNG” ấy trong phút gần lâm chung, TÂM bỗng nảy sanh ra ý tưởng :
Hoặc :
(Bởi vì làm HÒA THƯỢNG chân tu nghèo khổ quá, nên có ý muốn làm một kẻ giàu sang ở kiếp sau)
Phải bị mất phần VÃNG SANH, giải thoát đi.
Bị đọa vào kiếp sau, chuyển thân làm người NGÔ Thúc Bảo nầy.
Nhưng sự việc “NGUYỆN sai lầm” và “bị chuyển thân” lại làm Người thường như vậy thì :
LÀM THÂN KIẾP SAU (NGÔ Thúc Bảo) NHƯ VẬY).
UỔNG PHÍ CHO MỘT ÐỜI (TỪ) HÒA THƯỢNG CHÂN TU CHĂNG !
(Bởi vì nếu BẢO ÐĂNG đoán không lầm, thì kiếp trước vị “TỪ HÒA THƯỢNG” kia tu hành cũng được cao ÐẠO lắm, và có lẽ cũng gần “thành” rồi :
Ðây là bậc Quyền thừa BỒ TÁT thị hiện lại, giả làm ra (trường hợp) của Người NGÔ Thúc Bảo nầy, sanh thời không có tu hành chi, tới lúc gần chết mới chịu QUY Y và NIỆM PHẬT vài ba câu mà :
Ðể làm “tín chứng” cho PHÁP MÔN NIỆM PHẬT đối với những người TU TẬP đời sau TIN TƯỞNG, và phát tâm quy hướng về “Tịnh Ðộ” hay chăng ?
II/- TRƯƠNG CHUNG QÙY
Khi sắp chết, ÔNG thấy một vị mặc áo lụa đỏ, đuổi bầy gà đến, bảo:
Bầy gà liền xúm đến thi nhau cắn, mổ.
CHUNG QÙY đau đớn chịu không nổi, rên siết kêu la thảm thiết….
Vừa lúc ấy, có Sa môn HOẰNG ÐẠO đi ngang qua, thấy chuyện huyên náo, liền ghé vào, bày Thánh tượng – (tức là Tượng PHẬT, hoặc tượng BỒ TÁT) khuyên CHUNG QÙY cấp thiết NIỆM PHẬT.
Bầy gà tan rã bỏ đi.
(Lời “PHỤ” của BẢO ÐĂNG :
-
Như trường hợp của Người “TRƯƠNG CHUNG QUỲ” đây thì :
MANG TỘI “SÁT SANH” RẤT NẶNG
Bởi trong “TỨ TRỌNG TỘI” là SÁT (giết hại), ÐẠO (Trộm cướp), DÂM (Dâm dục), VỌNG (nói láo), thì :
NGHIỆP “SÁT” ÐỨNG ÐẦU.Nhưng Sở dĩ Họ TRƯƠNG nầy ngẫu nhiên lại được bậc Cao Tăng đến làm “thiện hữu” để cứu độ là vì sao ?
Ðó là nhờ :Trong quá khứ kiếp, đã có gây tạo nhiều căn lành lớn.Và chắc chắn là cũng đã có :Gieo căn lành “NIỆM PHẬT” rất sâu dầy vậy.Cho nên :· Vừa chắp tay,
· chí tâm NIỆM PHẬT lớn tiếng,(Chưa được bao nhiêu câu)Mà :
Các oan hồn GÀ kia đều siêu sanh hết.Còn bổn thân của đương nhơn thì :
“tiếp tục NIỆM PHẬT” thêm một lúc nữa, rồi : NGỒI NGAY THẲNG MÀ QUA ÐỜI (Trong câu NIỆM PHẬT)Như thế thì Họ TRƯƠNG ấy :
chắc chắn là được VÃNG SANH (về HẠ PHẨM HẠ SANH) nơi cõi CỰC LẠC rồi vậy.Thế mới biết :
- PHẬT LỰC VÔ BỜ
- NGUYỆN LỰC TỪ, BI, HỶ, XẢ và CỨU KHỔ, CỨU NẠN của Ðức PHẬT A DI ÐÀ, cùng công đức tiếp dẫn của câu NIỆM “NAM MÔ A DI ÐÀ PHẬT” không bỏ sót bất cứ chúng sanh NIỆM PHẬT nào vậy.
Lành vậy thay ! LÀNH VẬY THAY !
Còn :
- trường hợp của người “TRƯƠNG THIỆN HÒA” mà BẢO ÐĂNG kể tiếp sau đây cũng tương tự như vậy.
III/- TRƯƠNG THIỆN HÒA
“Mi đã giết chúng ta, hôm nay phải đền tội” !
Giây phút, một vị Tăng đến, bảo rằng :
Như thế, trong mỗi câu hồng danh sẽ trừ được tội nặng trong 80 ức kiếp sanh tử, liền được sanh về thế giới CỰC LẠC !”
“Tướng “hỏa xa” (xe lửa) ở ÐỊA NGỤC đã hiện tới rất gấp !
Rồi không kịp bưng lấy lư hương, Ông sảng sốt, tay trái bốc than lửa, tay mặt cầm hương đốt, xây mặt về TÂY lớn tiếng “NIỆM” :
TRƯƠNG vừa niệm được hơn 10 câu, bỗng reo lên và mừng rỡ mà nói :
Nói xong, liền qua đời. (TỨC LÀ ÐƯỢC VÃNG SANH)
(Lời “PHỤ” của BẢO ÐĂNG) :
KINH dạy :
- Giết chúng sanh có căn lành nhỏ – (như ruồi, muỗi….) thì mang “TỘI” nhỏ.
- Giết chúng sanh có căn lành lớn – (như Trâu, bò, voi, ngựa….) – thì mang “TỘI” lớn.
Ðương nhơn nầy chuyên nghề giết TRÂU, BÒ…..nên dĩ nhiên là MANG TỘI RẤT LỚN (vì TRÂU, BÒ,…..là những VẬT loại có công lao với đời, như giúp việc đất ruộng cày bừa, để cho nhà nông trồng lúa,….lại còn thêm chở nặng, mang vác thế cho người và cho người SỮA uống nữa…..
Người TRƯƠNG THIỆN HÒA đây sắp sửa bị đọa vào ÐỊA NGỤC, nên trước mắt tự thấy có “XE (chở) LỬA” nơi “HỎA ngục” đến bắt mình, ấy vậy mà Ông mới vừa – (nghe lời chư TĂNG dạy) nhứt tâm NIỆM PHẬT hơn 10 câu (tức là hơn “MỘT NIỆM”) thì được Ðức PHẬT A DI ÐÀ đến trao cho Tòa sen báu, tiếp dẫn VÃNG SANH.
Bởi vì Ông :
- Tay trái bốc than lửa (mà không thấy “SỢ”, và chẳng biết “NÓNG”).
- Tay mặt cầm nhang (hương) đốt vào nơi lửa than đang cầm ở bên tay trái – mà : Ông không cảm thấy NÓNG, SỢ và ngượng ngập chi cả.
- Day mặt về phương “TÂY” mà lớn tiếng NIỆM PHẬT.
trường hợp NIỆM PHẬT nầy của Ông là thuộc về sự “NHỨT TÂM” và “KHẨN CẤP” cũng như “CỨU LỬA CHÁY (chân) MÀY” vậy, cho nên :
Thì Ông liền được :
(Mang luôn cả NGHIỆP TỘI mà VÃNG SANH)
Trong LUẬN có lời dạy rằng :
Chớ không phải nói thuở bình thường, (tức là lúc còn đang hiện tiền, mạnh khỏe)
(Khi ấy) Ông “NHỨT NIỆM” đến mức quên hết cả THÂN, TÂM (đến nổi Ông không hay biết việc Tay mình đang cầm cục than cháy nóng, quên tất cả mọi thứ nghĩ tưởng,….. trong TÂM của Ông lúc ấy chỉ còn nhớ có câu NIỆM :
(Có nghĩa là ngay lúc đó Ông “NIỆM PHẬT” đến mức không còn thấy có :
NIỆM TRƯỚC KHÔNG SANH, NIỆM SAU KHÔNG DIỆT.
BẤT SANH, BẤT DIỆT (mà NIỆM PHẬT) cho nên dù chỉ là trong 1 niệm ngắn ngủi thôi)
TRAO TÒA SEN BÁU
tiếp dẫn VÃNG SANH (là phải rồi).
PHẬT LỰC VÔ BỜ, tiếp dẫn chúng sanh NIỆM PHẬT
KHÔNG BỎ SÓT MỘT AI (biết NIỆM PHẬT) HẾT CẢ.
3/- Lại cũng còn “trường hợp” đặc biệt khác nữa là có người :
Cho nên (chúng ta):
Lúc bình thời phải nên :
Ðừng nên bao giờ nói lên lời sái quấy rằng :
Mà :
Và :
Ðể đến nỗi phải bị lâm vào trong thảm cảnh chịu :
Mà uổng cho một phen :
Trong KINH “ÐẠI BÁT NIẾT BÀN”, PHẬT đã có lời dạy rằng :
-
“Có (nhiều) người, “NGHIỆP” kiếp nầy đáng lẽ bị đọa vào ba “ác đạo”.
Mà trái lại :
ÐƯỢC VÃNG SANH, giải thoát.
-
Có người “NGHIỆP” kiếp nầy đáng lẽ được “VÃNG SANH” mà trái lại :
Bị “ÐỌA” vào trong “ÁC ÐẠO”.
Các ngươi có biết Tại sao không ?
Bạch, nhờ THẾ TÔN chỉ dạy.
-
KHÔNG GẶP ÐƯỢC BẬC “Minh sư”, “thiện hữu” CHỈ DẠY, CHO ÐẠO PHÁP VÀ DẮT DẪN ÐƯỜNG TU.KHÔNG GẶP ÐƯỢC ÐÚNG GIÁO PHÁP tu hành “XỨNG HỢP”.
(Lời “PHỤ” của BẢO ÐĂNG :
Không gặp được đúng “GIÁO PHÁP XỨNG HỢP” ấy, có nghĩa là :KHÔNG GẶP ÐƯỢC “GIÁO MÔN Tịnh Ðộ”
Và cũng :KHÔNG GẶP ÐƯỢC BẬC “CHƠN SƯ” DẪN DẠY KỸ VỀ GIÁO MÔN Tịnh Ðộ
Cùng với :KHÔNG GẶP ÐƯỢC NGƯỜI “HỘ NIỆM” CHÂN CHÁNH, ÐÚNG PHÁP, TRONG
LÚC lâm chung (Xem kỹ lại “Thư Học Phật số 56). -
Còn người “NGHIỆP” đáng bị “ÐỌA” mà lại được “VÃNG SANH”,
Ấy là bởi vì :
- GẶP ÐƯỢC ÐÚNG BẬC “Minh sư”, “thiện hữu”,
- GẶP ÐÚNG ÐƯỢC PHÁP MÔN tu hành “XỨNG HỢP”.
- GẶP ÐƯỢC BẬC CHƠN SƯ VỀ Tịnh Ðộ (DẮT DẪN cho tu niệm)
(Lời “PHỤ” của BẢO ÐĂNG :
- Gặp đúng được PHÁP MÔN tu hành “XỨNG HỢP” ấy, có nghĩa là :
-
GẶP ÐƯỢC GIÁO MÔN “Tịnh Ðộ”.
(Rồi TINH TẤN và tích cực TU TẬP theo, không hề có lòng biếng trễ)
Cùng với :- GẶP BẬC “CHÂN SƯ” VỀ Tịnh Ðộ KHUYẾN DẠY, NHẮC NHỠ, VÀ DẮT DÌU TRONG CON ÐƯỜNG TU TẬP.
- GẶP ÐƯỢC BẬC THIỆN Tri Thức “HỘ NIỆM” CHÂN CHÁNH ÐÚNG PHÁP KHI sắp sửa lâm chung.
- Ðại khái như chuyện của Người NGÔ MAO dưới dây, như sau :
NGÔ MAO
Vì thế nên Ông được người xung quanh gọi là “TIỂU NGÔ”.
Khi binh của TẢ LƯƠNG NGỌC tràn vào đến THANH DƯƠNG, cả nhà HỌ “NGÔ” đều bỏ trốn đi lánh nạn, chỉ để một mình TIỂU NGÔ ở lại gìn giữ nhà cửa, tài sản. Binh giặc đến nơi cướp bóc lục soát, đoạn bắt TIỂU NGÔ tra hỏi, rồi đâm bảy thương giết chết. Giặc kéo đi hết, nhà chủ trở về thấy “TIỂU NGÔ” bị đâm chết, nên cho mời người anh lại để làm bằng chứng, khi người anh đến. NGÔ MAO bỗng tỉnh lại nói :
“Tôi vì ác nghiệp đời trước, đáng lẽ phải chuyển kiếp làm thân “heo” bảy lần. Nhưng nhờ đời nầy biết trai giới và NIỆM PHẬT, nên chỉ chịu bảy thương mà chết để trả xong bảy kiếp làm “heo”.
Hiện thời, PHẬT A DI ÐÀ đang đứng chờ ở giữa hư không để tiếp dẫn TÔI về TÂY PHƯƠNG”.
Việc nầy xảy ra ở vào năm đầu niên hiệu “THUẬN TRỊ” đời nhà THANH.
(Lời “PHỤ” của BẢO ÐĂNG :
Như trường hợp của người NGÔ MAO đây, kiếp nầy vì do DƯ NGHIỆP mà phải mang thân làm người đi ở mướn, lại “TÚC NGHIỆP” khiến cho phải bị :
Mà Ta cũng đã biết có câu rằng :
“Thiên niên khô mộc khai hoa dị,
Nhứt thiết nhân thân vạn kiếp nan” !
Nghĩa là :
Cây khô ngàn năm trổ sanh ra hoa (lại) cũng không khó,
Chớ còn một khi đã mất thân người rồi thì muôn kiếp khó phục hồi !
Giả sử như Ông NGÔ MAO không gặp được PHÁP MÔN “Tịnh Ðộ” nầy, và tích cực TU TẬP theo thì khi mãn kiếp người nầy rồi :
Và :
Nhưng nhờ phước duyên và căn lành TU TẬP trong quá khứ, cho nên kiếp nầy, qua PHÁP MÔN Tịnh Ðộ, Ông chăm lòng TU TẬP theo trong mọi thời và mọi hoàn cảnh, không dứt đoạn, dù rằng đang mang thân phận khổ nhọc của một kẻ tôi đòi. Trên đời nầy thiệt là ít có ai làm được.
Và lại còn được Ðức A DI ÐÀ PHẬT đích thân cầm tòa sen quang lâm đến tiếp dẫn VÃNG SANH về CỰC LẠC.
Lòng từ bi cứu khổ của chư PHẬT đối với chúng sanh rộng lớn biết là ngần nào !
PHÁT LÒNG TÍN, NGUYỆN, TINH TẤN tu hành THEO.
Mong lắm vậy thay.
LỜI KẾT :
Ngay bây giờ, lúc còn đang trẻ trung và mạnh khỏe đây,
cố gắng HÀNH TRÌ câu NIỆM. “NAM MÔ A DI ÐÀ PHẬT”
“Ðới nghiệp VÃNG SANH” về cõi “Liên Hoa” độ – (CỰC LẠC) như bà VIÊN ÐỨC TRẦN PHƯƠNG NỮ nầy vậy.
Chờ đến khi già, bệnh hay nằm trên giường đợi chết rồi sẽ : NIỆM PHẬT
Thỉnh tìm bậc Minh sư thiện hữu đến “HỘ NIỆM” làm chi !!
Như trước BẢO ÐĂNG đã có lượt qua “10 điều” Thình lình xảy đến cho TA, mà mình không thể nào kịp thời NIỆM PHẬT được.
A/-
KHI lâm chung BỊ CẢNH “TỨ ÐẠI” NƠI THÂN LY TÁN
dường như :
Hay là :
Thử hỏi :
B/-
DUYÊN ÐỜI CHƯA DỨT ÐƯỢC,
NIỆM NHỚ ÐẾN VIỆC “THẾ TỤC” KHÓ QUÊN
- THAM SỐNG, SỢ CHẾT,
- Trong TÂM sanh ra nhiều sự rối loạn không yên.
Thêm vào đó là có các việc khác nữa xảy ra cho Ta, như là :
-
Việc nhà chưa giải quyết, phân minh :
(Như là “di chúc” về nhà cửa, đất ruộng, tiền bạc, việc phải, trái, trước sau chưa giải quyết ổn thỏa…..)
-
Việc sau chưa sắp đặt :
(Như là chưa gả chồng, cưới vợ cho con gái, con trai, chưa lập con đích tử, hoặc cháu đích tôn để thừa kế dòng Họ, chấp chưởng gia tài….)
Lại còn có thêm các cảnh “não lòng” khác nữa, như là :
(Anh ơi, anh hỡi ! nỡ lòng nào anh bỏ mẹ con em mà đi, Giời ơi !! vv….)
LÀM SAO ÐỂ AN TÂM MÀ “NIỆM PHẬT” CHO ÐƯỢC
C/-
- RÊN RỈ, ÐAU ÐỚN……
- TÌM THẦY, CHẠY THUỐC KHẮP (NƠI) VẠN THỦY, THIÊN SƠN.
- LO LẮNG KHẨN CẦU, CÚNG VÁI LUNG TUNG
Còn trong TÂM thì :
Thử hỏi :
D/-
Bị sự khổ “GIÀ NUA, LỤM CỤM” của cảnh :
Và lại còn có thêm :
Lúc ấy thì :
ÐÃ AN LÒNG ÐỂ MÀ “NIỆM PHẬT” ÐƯỢC !!!
E/-
-
TÂM “CAO VỌNG” CHƯA TIÊU DỨT.
(Như có ý muốn làm Ông nầy, Bà nọ, để được cảnh PHÚ, QUÝ, VINH HOA).
-
Việc “thế tục” còn vương vấn, buộc ràng.
(Tức là TÂM vẫn còn thấy yêu đời, yêu SẮC, TÀI, DANH, LỢI lắm), hoặc là :
- Nay suy vầy, mai tính khác.
-
Trăm kế ngàn mưu.
để làm sao cho Thỏa mãn được những sự mong muốn của mình.
Như vậy thì đương nhiên là bị lâm vào trong cảnh :
Thì cũng :
f/-
Nhưng mà :
SẼ XỬ SỰ NHƯ THẾ NÀO ?
(DUYÊN) ÐỜI LÀ “HUYỄN MỘNG”, CHẲNG CÓ CHI LÀ ÐÁNG ÐƯỢC LUYẾN LƯU HẾT CẢ…..
THÂN TUY LÀ ÐƯỢC YÊN,
TÂM CÒN “bấn loạn” LUNG TUNG (Trước các cảnh DANH, LỢI, SẮC, TÀI)
Trong cái cảnh :
- NHÌN CHƯA THẤU (Duyên đời là ảo mộng, giả dối, không bền)
- NẮM CHƯA CHẮC, ÐẠP CHƯA VỮNG…..
(Ở nơi bước đường TU, như là ly gia, xả ái, giã từ thân thuộc, gọt sạch đi mái tóc xanh để :
Thì :
HỎI:
Khi ấy thì:
Chỉ toàn là :
Ắt sẽ :
Qua các sự kiện mà BẢO ÐĂNG diện dẫn ra trên đây, xin hỏi tất cả chúng ta rằng :
TÂM MÌNH (CÓ) QUYẾT ÐỊNH ÐƯỢC ÐIỀU CHI CHĂNG ?
I/- Phải quyết định và xét kỹ “điều” rằng :
Mà nếu;
- TÂM CHƯA sáng suốt DỨT KHOÁT,
- BỊ MỘT VIỆC CHI ÐÓ (Danh, Lợi, Sắc, Tài….) ÐEO ÐẲNG Ở TRONG LÒNG, mà mình còn : KHÔNG THỂ NÀO “NIỆM PHẬT” ÐƯỢC THAY.
Huống chi là :
Mà phóng TÂM :
Như vậy chính thật gọi là cảnh của :
Thì chỗ dụng Tâm ấy còn rất là lầm lạc, và “nông nổi” vậy thay.
“TỔ SƯ” dạy rằng :
- Như lửa nhán nơi thân đá, hay chớp giật ở lưng trời,
- Mới còn đó thì đã mất đi,
HỎI CÓ CHI LÀ VĨNH CỬU (còn hoài) ÐÂU.
NHẬN ÐỊNH CHO CHẮC THẬT, RÕ RÀNG ÐI.
Thừa lúc chưa già, chưa bệnh, mà gác qua việc thế sự, rũ sạch bớt Thân tâm.
Thì :
Ðược:
Tu:
Như thế thì đến khi lâm chung, mọi việc (bận rộn trong TÂM, trong cuộc đời) cũng đã an bài, và :
Bằng chẳng (chịu) như thế thì đến khi :
Chừng ấy dầu cho có :
- ĂN NĂN CŨNG ÐÃ MUỘN MÀNG RỒI VẬY. PHẢI NÊN SUY NGHĨ KỸ LẠI MÀ phát tâm tu hành ÐI :
- ÐỪNG NÊN SỢ CHÚNG CƯỜI, CHÊ,
- VÀ CŨNG ÐỪNG HẸN HÒ, CHỜ ÐỢI NỮA.
Cổ đức dạy :
Sáu chữ “PHẬT” cùng nhau gắng “NIỆM”,
Chín phẩm đài sẽ chiếm ngôi vinh.
Thảng như mình “PHỤ” lấy mình,
Trách sao “DIÊM LÃO” vô tình chẳng dung.
Và:
Mạc đãi lão lai phương NIỆM PHẬT,
Cô phần đa thị thiếu niên nhơn.
Tạm dịch :
Chớ hẹn tới già rồi NIỆM PHẬT,
Ðồng hoang mồ trẻ thiếu chi người.
BẢO ÐĂNG xin tạm chấm dứt phần “giải đáp, khuyên nhắc” ở nơi đây.
Trân trọng,
(Cẩn bút)
[1]– Chẳng hạn như là bị trúng bom, đạn, pháo kích, bị “bắn sẻ”, bị ác thú cắn chết, hoặc tai nạn xe cộ mà chết.vv…..
[2]– BÀ cụ tuy là có con Trai, con Gái, Dâu và Rễ nhiều, nhưng đều không biềt đạo, chẳng có tu hành chi, lại cũng không có “ÐỨC TIN” về PHẬT PHÁP…..nên không giúp ích gì được cho Cụ trong những giờ phút lâm chung sau cùng…. Chỉ có 2 cô TRÂN và PHỤNG nầy, vừa là CON mà cũng vừa là “thiện hữu” của Cụ mà thôi.
Bình luận