- Giảng giải về lời phát nguyện cầu sanh Cực Lạc trong 3 điều tín, hạnh, nguyện.
- Người chơn thật niệm Phật
- Tâm bồ đề
- Văn phát nguyện sau khi niệm Phật xong
….. “Cho nên phàm làm Người TU “TỊNH ÐỘ” (nhất là giới “Xuất gia”, phải có lời “NGUYỆN” là :
Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu,
Hoa khai kiến
PHẬT, ngộ vô sanh.
Bất thối BỒ TÁT, vi bạn lữ” !!
Hoa sen chín phẩm sẽ làm Mẹ Cha.
Hoa nở thấy PHẬT hiện ra,
Vô sanh chứng ngộ bạn ta thánh hiền”…
TẠI SAO ?
Ðó là việc :
Trước hết :
- Người “HÀNH GIẢ” bắt buộc phải phát lòng “TIN” trước nhất.
-
Sau khi đã phát lòng “TIN” rồi, thì phải tha thiết :
“TRÌ NIỆM” SÁU CHỮ HỒNG DANH “NAM MÔ A DI ÐÀ PHẬT”
(Ðây tức là phần “HÀNH” (tức là “SỰ” tu)
Ðể :CHỨNG TỎ SỰ QUYẾT TÂM “NIỆM PHẬT” của mình.
Sau đó là đến phần việc, phải phát tâm “chơn thiết”, cầu “THOÁT LY” ra khỏi cõi “TA BÀ” dẫy đầy khổ lụy, chướng duyên, và mong muốn được “sanh” về miền “TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC” an vui, thanh tịnh, trang nghiêm vô lượng để TIẾN TU, hầu có ngày hoàn thành được việc “TỰ ÐỘ, ÐỘ THA”, “TỰ GIÁC, GIÁC THA” của mình đối với “TA”, “NGƯỜI”…..
Sự “MONG MUỐN” ấy chính gọi là : “NGUYỆN” vậy.
(Phụ luận :
Ví như cái “ÐẢNH” có 3 chân, nếu thiếu một “CHÂN” là phải đổ ngay.
Ðó là việc :
Và :
Bởi vì :
Nhưng phải “nhớ” một “điều” cho thật kỹ là :
Thì:
Cho nên :
Cho nên, trong Kinh “HOA NGHIÊM” có lời “dạy” rằng : “BẤT PHÁT “ÐẠI NGUYỆN”, MA SỞ “NHIẾP TRÌ”.
Nếu làm (HÀNH) đây ý nói là có phần “HÀNH TRÌ” câu NIỆM PHẬT mà không chịu PHÁT LÊN cái “ÐẠI NGUYỆN CHƠN CHÁNH” (CHƠN NGUYỆN) (tức là cầu sanh về cõi CỰC LẠC TỊNH ÐỘ) thì trước sau gì cũng đều :
Tại sao vậy ?
Thí dụ như có người suốt đời làm
phước, hoặc là “BỐ THÍ”, làm các việc “THIỆN”, hoặc là “NIỆM PHẬT”, “TỤNG KINH” hoặc là “TU HÀNH” vv…..(nhưng mà cứ làm “khơi khơi” vậy thôi, chớ không có đem “kết quả” của các việc “thiện” đó để hồi hướng nơi quả vị vô-thượng Bồ đề hay là cầu sanh về “CỰC LẠC TỊNH ÐỘ” vv….chi cả).
Thì thử hỏi cái “kết quả” của các hành động “tốt”, đó kiếp sau “nó” sẽ “diễn tiến” như thế nào ?
Ðương nhiên là người ấy ở trong kiếp sau (thứ nhì) sẽ rất giàu sang, sung sướng, bạc tiền dư dả, xe ngựa nhà lầu, hoặc làm Vua, làm Chúa, làm QUAN, chức trọng, quyền cao, vinh sang tột đỉnh. Nhưng mà – bởi vì “y” ta (kiếp trước cùng với kiếp nầy) không biết đạo – cho nên kiếp nầy “TÂM” “y” ta bị say đắm vào nơi “phước báo” cao sang, ham mê danh vọng, của, tiền, rồi miệt mài và phóng “TÂM” làm “ÁC”, đến nỗi phải bị trôi lăn vào trong vòng “ngũ dục lạc”, rồi làm ra các chuyện “thất đức, ác ôn” (đây tức là đã bị Ma nó “nhiếp trì”, sai sử… đó) đến chừng bỏ “kiếp hiện tại” ấy rồi, ắt (kiếp thứ ba) phải y theo các hành nghiệp bất thiện kia mà “đọa” vào tam đồ, ác đạo…..)
Nương theo “Ý” và lời “DẠY” nầy, chư “BỒ TÁT”, “TỔ SƯ” có “dạy” thêm cho người TU (nói chung) và kẻ “HÀNH GIẢ” NIỆM PHẬT (nói riêng) lời rằng :
“Phù, NGUYỆN dã, NHẠO dã, DỤC dã…..
“DỤC” sanh TÂY PHƯƠNG TỊNH ÐỘ,
Nhạo kiến “A DI ÐÀ PHẬT”,
Tất tu phát nguyện, phương đắc vãng sanh.
Nhược vô nguyện tâm, thiện căn trầm một”
(tức là căn lành bị “chìm mất” đi)…..
Nghĩa là :
Ưa, muốn, sanh về cỗi “TÂY PHƯƠNG TỊNH ÐỘ” để được thấy đức CHA hiền A DI ÐÀ PHẬT. Thì cái điều tất yếu là phải tu việc “PHÁT NGUYỆN” trước cái đã.
Bằng nếu như mà không có “TU” cái “TÂM PHÁT NGUYỆN” kia, tất MA “NÓ” phá cho “căn lành” đó tan tành đi, khiến cho TA phải bị chìm mất vào trong “ÁC ÐẠO, LUÂN HỒI” vv …..
Tại sao vậy ?
(Tức là : “Có “làm” mà không có “NGUYỆN”, thì việc làm ấy sẽ không có “mục đích”, “tôn chỉ” – (tức là chẳng có chỗ nào – (hoặc cõi PHẬT, cõi TRỜI, cõi NGƯỜI….) để “QUY HƯỚNG” về…. hết)
Bởi vì, trước hết mình phải có một cái “mục đích”, một cái “chủ trương” cho thiệt là rõ ràng, phân minh, (tức là sự phát tâm ban đầu) đâu đó xong xuôi hết rồi (đây tức là lời “NGUYỆN” vậy), thì sau đó mới bắt tay vào “làm” công việc ấy được (Ðây tức là “HÀNH” đó). Bằng nếu mà không “NGUYỆN” theo như vậy, thì cái “làm” ấy “nó” chẳng có “nghĩa lý” gì cả.
Và như vậy thì đương nhiên là cái việc “HÀNH” đó nó vô vị, trống không.
Thử hỏi làm việc mà vô vị, trống không như vậy, thì làm để mà chi Như có người ra sức để làm việc, bất kể đêm, ngày, tháng, năm vv…..làm hoài mà không buông bỏ, không nghỉ ngơi chi cả…, để làm gì Nếu không phải là “MUỐN” cho có nhà cao, cửa rộng, để tiền của lại nuôi Vợ, nuôi Con (sau nầy), lo lắng cho gia đình, thì y ta đâu có ngu dại gì mà chịu cực khổ, nhọc nhằn như vậy chớ !
Còn người tu “TỊNH ÐỘ” chúng ta đây cũng thế :
Dậy sớm, thức khuya, tháng lại, ngày qua, năm nầy, năm khác….cho chí đến suốt cả cuộc đời, miệng niệm hoài một câu NAM MÔ “A DI ÐÀ PHẬT”, thân lạy hoài một Ông PHẬT “A DI ÐÀ” để làm gì ? nếu không phải là MUỐN, là ƯA (tức là NGUYỆN đó), là cầu được vãng sanh về cõi TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC ư ?
Trong “QUY NGUYÊN” có dạy :
Sở dĩ,
“DI ÐÀ” hữu phát “LỤC BÁT NGUYỆN môn”.
Thị tri (phải biết) :
Thượng cổ Tiên hiền,
Giai “nhơn” nguyện lực,
Thành tựu Bồ đề.”
Vậy nghĩa là sao ?
Tất cả các việc “PHẬT SỰ” (mà mình đã làm, đang làm, và sẽ làm) đều căn cứ vào nơi “ÐẠI NGUYỆN” mà phát khởi ra cả. Còn như nếu (mà) muốn đạt cho được cái quả vị “VÔ-THƯỢNG BỒ ÐỀ”, của PHẬT tất nhiên cũng phải siêng tu theo lời “KINH” dạy, cho thành tựu cái “NGUYỆN BA LA MẬT” trước hết, (rồi sau) mới được vậy.
Và cũng bởi vì (có cái “ý”) như thế, cho nên :
- Ðức “PHỔ HIỀN” đại BỒ TÁT mới phát ra (10 ÐẠI “NGUYỆN VƯƠNG”) rộng rãi, vô lượng, vô biên, vô bờ, vô bến, (đến tột cùng thuở vị lai, khi nào “NGHIỆP” của chúng sanh cùng tận, “hư không” cùng tận mới chịu thôi nghỉ – có nói sơ qua ở trên rồi)
- Còn Ðức “A DI ÐÀ PHẬT”, (khi xưa lúc Ngài còn làm PHÁP TẠNG Tỳ kheo), đã có đối trước đức PHẬT “THẾ TỰ TẠI VƯƠNG NHƯ LAI” – (phát ra 6 lần cái 8 (tức là 48) lời “ÐẠI NGUYỆN” để trang nghiêm cõi “CỰC LẠC” và thành tựu PHẬT QUẢ nữa kìa !
Vậy cho nên :
Chư “PHẬT” ở khắp 10 phương, (kể luôn cả 3 đời chư PHẬT (là PHẬT quá khứ, PHẬT hiện tại, PHẬT vị lai) cùng với các bậc “thánh” xưa, “hiền” trước, (thượng cổ, tiên hiền) – Sở dĩ thành “PHẬT” đều nhờ vào nơi ÐẠI “NGUYỆN” (mà được) cả vậy.
Như trong phần trước đã có nói rằng :
Vì vậy cho nên người TU TỊNH ÐỘ (tức là kẻ “Hành giả”) nhất định là phải :
- TIN cõi “CỰC LẠC” là có thật (cũng như cõi “TA BÀ” nầy là hiện hữu, là có “THẬT” vậy. Và :
-
Ðức PHẬT “A DI ÐÀ” luôn luôn “HỘ NIỆM” cùng sẵn sàng tiếp dẫn bất cứ “chúng sanh” nào biết “QUY KÍNH” và “chuyên niệm đến sáu chữ HỒNG DANH” : “NAM MÔ A DI ÐÀ PHẬT”
kêu gọi đến “NGÀI” không buông bỏ và chẳng thối chuyển, lòng “TIN” sâu chắc như thế thì gọi là : “TÍN” vậy.
Sau khi đã có Ðức “TIN” rồi, thì kẻ “Hành giả” ấy phải :
Ðây gọi là : “HẠNH” vậy.
Như trên vừa nói 3 phần “YẾU ÐIỂM” “TÍN”, “HẠNH”, “NGUYỆN” nầy không thể nào “tách rời” nhau mà (muốn) được VÃNG SANH cả !!
-
Ðược “VÃNG SANH” CỰC LẠC hay không toàn là do nơi : “TÍN” và “NGUYỆN”
Còn :
- Phẩm “SEN” thấp hay cao là do nơi công phu : “HÀNH” (trì câu Hồng danh) “cạn” hay “sâu”, “nhiều” hay “ít”.
HỎI :
Vậy còn cái “TÂM” thì sao có cần phải “TRONG SÁNG” và “THANH TỊNH” hay không ?
ÐÁP :
-
Ðương nhiên là phải luôn giữ “TÂM” mình “trong sáng” và “thanh tịnh” để cho hợp với “TÂM VÔ NHIỄM” của chư “PHẬT THÁNH”. Việc “GIỮ TÂM” nầy rất ư là cần thiết, vì nếu không như vậy thì sự “TRÌ NIỆM” ấy không thành hiệu quả chi hết.
Hoặc :
Nếu như có “THÀNH” đi chăng nữa thì cũng bị đọa lạc vào trong vòng “MA ÐẠO” làm thành các loài “MA THẦN” hoặc cao hơn nữa là (THÀNH) “MA VƯƠNG” nơi cõi “THẦN” hoặc là cõi “TRỜI”…..mà thôi, chớ không thể nào trở thành bậc “THÁNH” “GIẢI THOÁT” nơi cõi “cực lạc” của Ðức PHẬT A DI ÐÀ được.
-
Việc học hiểu giáo lý cũng “không cần thiết” lắm (cho người PHẬT TỬ bình thường ở tại gia), bởi vì cứ việc giữ một lòng thành kính mà “HÀNH TRÌ” câu PHẬT HIỆU (đương nhiên là phải dứt sự “NGHI NGỜ”) suốt đời cũng được vãng sanh, như BÀ “BÁ BẤT QUẢN” hay là Thân mẫu của Cố Hòa Thượng THÍCH THIỀN TÂM là Cụ BÀ “GIÁC ÂN TRẦN THỊ DUNG” vậy.
(Cụ Bà “BÁ BẤT QUẢN” và “Cụ Bà GIÁC ÂN” thì không hiểu “Giáo lý” là gì hết, chỉ nghe theo lời dạy mà chí “TÂM” NIỆM PHẬT và cầu “PHẬT” rước con về CỰC LẠC mà thôi, ấy vậy mà khi lâm chung cả hai CỤ đều được “vãng sanh” hết cả (nhưng chỉ được phẩm “HẠ HẠ” mà thôi, chớ không thể nào cao hơn nữa).
(Lời phụ 1 :
- (Xem sự tích và việc “NIỆM PHẬT” của Cụ Bà “BÁ BẤT QUẢN” nơi quyển “MẤY ÐIỆU SEN THANH” số 2 (trang 104) (tức là quyển “TỊNH ÐỘ THÁNH HIỀN LỤC”).
- Sự tích và việc “NIỆM PHẬT” của Cụ BÀ “GIÁC ÂN” TRẦN THỊ DUNG nơi quyển “VÔ NHẤT ÐẠI SƯ – THÍCH THIỀN TÂM, MỘT CAO TĂNG CẬN ÐẠI” (nơi các trang từ 399 đến 403 sẽ rõ (và nhớ lại) hơn)
Còn việc cần phải “HỌC HIỂU GIÁO LÝ” (thì đương nhiên) cũng rất ư là “CẦN THIẾT”, “NẾU” BẬC “NIỆM PHẬT” ấy là một vị TĂNG (hoặc NI), hoặc tai gia cư sĩ (như BẢO ÐĂNG đây vậy) đang “đảm nhận” trọng trách của các chức vụ “TRỤ TRÌ” hay “HOẰNG DƯƠNG ÐẠO PHÁP” (và nhất là vị “TĂNG” hay “NI”, hoặc vị “CƯ SĨ” ấy… đang tích cực hoằng dương về “TỊNH ÐỘ” – thì rất cần phải biết rõ về “GIÁO LÝ” và “PHẬT PHÁP” để (khỏi bị cảnh làm một kẻ “TU MÙ” (tức là MANH SƯ, HẠT LUYỆN”), và có đủ khả năng dẫn dắt các người TU “TỊNH ÐỘ” thuộc đàn “HẬU TẤN” về sau một cách chính xác và khỏi lầm lạc mà thôi (tức ý là nói tránh cái cảnh : – Một người “ÐUI” mà dẫn lộ một đám người “MÙ”)
Cho nên “TỔ SƯ” có lời dạy rằng :
Có HAI HẠNG “NGƯỜI” được gọi là “CHƠN THẬT NIỆM PHẬT” (tức là chơn chánh TU theo “TỊNH ÐỘ PHÁP MÔN”.
-
Bậc thông suốt “TÔNG, GIÁO” (tức là hiểu rõ về PHẬT PHÁP và các loại “KINH-ÐIỂN” lớn, nhỏ, Ðại Thừa, Tiều Thừa) vv….và :
Do vì đã thông suốt “TÔNG GIÁO”, “KINH ÐIỂN, PHẬT PHÁP” và (hiểu rõ) các lời PHẬT, TỔ dạy về “TỊNH ÐỘ PHÁP MÔN” như vậy, cho nên “VỊ” ấy phát lòng chân thiết mà “NIỆM PHẬT” suốt đời không “buông bỏ” và chẳng có chút lòng “NGHI NGỜ” nào hết. (Vì thế, cho nên sẽ được “VÃNG SANH” về “CỰC LẠC” ở nơi “PHẨM” sen cao nhất (phẩm THƯỢNG), sau khi “thị TỊCH”).
-
Hai là hạng người “BÌNH DÂN” dốt nát, “NGU TỐI” (tức là “TU” mà ) không chút hiểu biết chi về KINH ÐIỂN, TÔNG GIÁO, hay “YẾU CHỈ” “TỊNH ÐỘ” PHÁP MÔN….là gì hết cả, mà chỉ : NGHE, BIẾT (Qua lời THẦY dạy) là cố gắng “NIỆM PHẬT” (cho nhiều đừng làm biếng), (để được PHẬT tới rước), rồi :
“THÀNH THẬT VÂNG LỜI, VÀ CHÍ TÂM NIỆM HOÀI” “KHÔNG QUÊN” hoặc “KHÔNG BUÔNG BỎ” ngày nào hết.
Hạng người nầy cũng “đáng được gọi” là loại : CHƠN THẬT NIỆM PHẬT
(Lời phụ 2 :
SỰ “GẮNG SỨC” – (tức là “Tinh tấn”) CỦA RIÊNG MÌNH
TỰ XÉT KỸ LẠI XEM MÌNH CÓ “THIẾT THỰC” Và “TINH TẤN” TU HÀNH THEO ÐÚNG NHƯ “TÔNC CHỈ” CỦA “TỊNH ÐỘ PHÁP MÔN” hay “KHÔNG” (đúng) mà thôi.
Ngược lại đôi khi “HỌ” còn nói những lời “đã phá” TỊNH ÐỘ nữa)
Và : Cụ BÀ “GIÁC ÂN TRẦN THỊ DUNG” (Thân mẫu của Cố Hòa Thượng THÍCH THIỀN TÂM”) đây là :
………..
(Ðây ý nói là : CÒN CÓ LÒNG “NGHI NGỜ” về “TỊNH ÐỘ PHÁP MÔN” vậy)
Dầu cho trì niệm câu “HỒNG DANH” : “NAM MÔ A DI ÐÀ PHẬT”
- Gió thổi không vào,
- Mưa sa chẳng lọt,
- Vững chắc như tường đồng, vách sắt. đi chăng nữa, cũng QUYẾT ÐỊNH là : KHÔNG ÐƯỢC VÃNG SANH.
(Ðây “Ý” dạy là :
Cho nên, nếu như người NIỆM PHẬT tinh chuyên nào (Tinh tấn và chuyên cần) mà THIẾU “TÍN” cùng “NGUYỆN”, thì :
Mà một khi đã bị lạc vào trong vòng “NHƠN, THIÊN phước báo” rồi thì đa phần đều bị “mê muội” hết cả (vì quá ham mê nơi hai phần “PHƯỚC” và “LẠC”) nên cũng khó thể nào tu hành được cả.
Rốt lại rồi như thế nào ?
Bởi vậy cho nên :
Thì :
Theo lời “dạy” của TỔ SƯ (NGẪU ÍCH ÐẠI SƯ) thì TA biết chắc rằng :
Mà trong đó điểm “yếu quyết” là tại nơi chữ : “nguyện”
“LÂM CHUNG ÐỚI NGHIỆP VÃNG SANH” của các hạng người “NGHIỆP NHIỀU, CHƯỚNG NẶNG”, hay có công phu “NIỆM PHẬT” thuộc về loại chỉ NIỆM PHẬT LAI RAI mà thôi, nhưng mà “HỌ” có đủ hai phần : “TÍN” và “NGUYỆN” (bền chắc)
(Tức là không có chút lòng “NGHI NGỜ” hay “CHÊ BAI” về TỊNH ÐỘ PHÁP MÔN chi cả).
Trái lại :
Tuy là công phu trì niệm vững chắc như “vách sắt, tường đồng”….đi chăng nữa, mà 2 phần “TÍN” và “NGUYỆN” kém yếu, thì “kết quả” cũng chỉ là giống như : -“Hòa Thượng HUYỀN CHÂN (Tiền thân của VUA “KHANG HY”)
Hoặc là : Thiền sư GIÁM KHÔNG
(Ông “TĂNG” chết dọc đường nầy, kiếp sau đầu thai lại làm “THÁI TỬ” và chắc chắn là sẽ được LÀM “VUA” nữa)
(Xin xem lại các “sự tích” nầy trong THƯ GỞI NGƯỜI HỌC PHẬT số # 61 kỳ rồi, sẽ nhớ lại)
“Thà “TÍN”, “NGUYỆN” bền chắc
Như thế cũng thấy rõ rằng :
Cho nên :
“NGUYỆN” là điều cần yếu đứng vào bậc nhất vậy….
“TỔ SƯ” TỊNH ÐỘ (TỔ “TỈNH AM ÐẠI SƯ”, thứ 11) dạy :
(Trong con đường Tu “TỊNH ÐỘ” của người PHẬT TỬ (bất kỳ là “Tại gia” hay “Xuất gia”) thì thường thường có mấy điều “thiếu sót” đáng “lưu ý” như sau) :
-
Có thể có “TÍN” và “HẠNH”.
Mà : Không có “NGUYỆN”
-
Chớ chưa từng thấy :
Có “NGUYỆN” mà không có “TÍN” và “HẠNH” bao giờ.
Cho nên vì thế mà :
Chữ “NGUYỆN” bao gồm luôn cả 2 phần “TÍN” và “HẠNH” vậy. -
Lại nữa người TU theo “HẠNH” “TỊNH ÐỘ” cần phải phát tâm “BỒ ÐỀ” thì mới được “TƯƠNG ƯNG” với bổn nguyện của Ðức PHẬT A DI ÐÀ, qua câu “NGUYỆN” phát tâm “BỒ ÐỀ” sau đây :
“Ngã kim phổ vị, Tứ ân Tam hữu, cập Pháp giới chúng sanh, cầu Ư chư PHẬT, nhứt thừa vô thượng, BỒ ÐỀ đạo cố, chuyện tâm trì niệm, A DI ÐÀ PHẬT, vạn đức hồng danh, cầu sanh CỰC LẠC, Duy nguyện “Từ phụ”, A DI ÐÀ PHẬT, từ bi gia hộ, ai lân nhiếp thọ. (chuông, 1 lạy)
(Nghĩa là :
Con nay khắp vì, 4 ân ba cõi [1], và các chúng sanh trong pháp giới, cầu được thành tựu quả vị nhứt thừa “Vô thượng BỒ ÐỀ của PHẬT, mà “chuyên tâm” trì niệm câu VẠN ÐỨC HỒNG DANH “A DI ÐÀ PHẬT”, cầu được vãng sanh về nơi CỰC-LẠC. Xin nguyện ÐỨC cha lành A DI ÐÀ PHẬT, từ bi gia hộ, thương xót mà “Nhiếp thọ” cho. (Ðánh 1 tiếng chuông, lạy xuống 1 lạy)
Tức là “TÂM” :
- Lợi mình
- Lợi người,
- Trên cầu thành “PHẬT QUẢ”.
- Dưới hóa độ tất cả chúng sanh.
Còn nếu như :
Cho nên người Tu TỊNH ÐỘ phải :
- Lấy sự phát tâm “BỒ ÐỀ” làm “CHÁNH NHƠN”. (tức là “ƯU TIÊN” trước hết)
- Sự “NIỆM PHẬT” làm “TRỢ” (phụ) NHƠN. Sau đó rồi mới :
- PHÁT “NGUYỆN” CẦU SANH CỰC LẠC.
Ðây là lời “DẠY” rất “CHƠN THẬT” của LIÊN TÔNG Thập nhứt TỔ (Tổ thứ 11) là ngài : TỈNH AM ÐẠI SƯ – (tức là Ngài THIỆT HIỀN ÐẠI SƯ)
Cũng bởi vì chữ : “NGUYỆN” có một tánh cách “TRỌNG YẾU” đứng vào hàng bậc nhất – (trong pháp môn “TỊNH ÐỘ”) –như vậy, cho nên nơi đoạn nầy, BẢO ÐĂNG dành phần “GIẢNG” (y theo lời PHẬT, “ý” TỔ mà) “LUẬN BÀN” về chữ “NGUYỆN” nầy mà thôi, theo y như lời “KỆ khải đề” sau đây :
KHẢI ÐỀ :
……………………………
Chi bằng :
VỀ CÕI LIÊN BANG,
Hoa khoe sắc ngọc, gió đàn pháp âm.
Trời giải thoát, cảnh thậm thâm,
An vui muôn kiếp, tuyệt lầm lỗi xưa.
CHỈ CÂU “NIỆM PHẬT” ÐỪNG THƯA [2]
CHỈ BỀN :
“TÍN, NGUYỆN” [3]
TAM THỪA BƯỚC LÊN.
Ðài vàng :
ÐÃ SẴN GHI TÊN [4]
Cơ duyên chỉ đợi một “NỀN ÐẠO TÂM”.
VÔ NHẤT ÐẠI SƯ
THÍCH THIỀN TÂM (Hòa Thượng)
Như qua bài “KỆ” dẫn nhập trên đây, TA thấy “TỔ SƯ” (VÔ NHẤT ÐẠI SƯ) đã “nhấn mạnh” rằng :
……………
Chỉ câu “NIỆM PHẬT” đừng thưa,
Chỉ bền : “TÍN”, “NGUYỆN” (là) Tam thừa bước lên.
Cho nên người “NIỆM PHẬT” chúng ta phải biết rõ rằng :
Nên chi trong Kinh “HOA NGHIÊM”, phẩm “PHỔ HIỀN HẠNH NGUYỆN” Ðức “PHỔ HIỀN ÐẠI BỒ TÁT” (NGÀI là Bậc Thánh giả TỔ SƯ khải mở ra Tông môn “TỊNH ÐỘ”) có lời dạy rằng :
“ÂM” :
Ðáo dĩ tức kiến, A DI ÐÀ PHẬT, VĂN THỪ SƯ LỢI BỒ TÁT, PHỔ HIỀN BỒ TÁT, QUÁN TỰ TẠI BỒ TÁT, DI LẶC BỒ TÁT”….
(NGHĨA :
Chỉ có “MƯỜI” nguyện vương nầy là chẳng rời người mà thôi.
Ðến cõi “CỰC LẠC” rồi, được thấy Ðức “PHẬT A DI ÐÀ”, cùng với các Ngài “VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT, PHỔ HIỀN BỒ TÁT, QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT, DI LẶC BỒ TÁT”….
“ÂM” :
XÁ LỢI PHẤT,
“NGUYỆN” sanh bỉ quốc, Sở dĩ giả hà Ðắc dữ như thị, chư thượng thiện nhơn, câu hội nhứt xứ”.
(NGHĨA :
ÂM :
(NGHĨA :
ÂM :
Kim phát “NGUYỆN”
Ðương phát “NGUYỆN”.
dục sanh “A DI ÐÀ PHẬT” quốc giả,
Thị cố XÁ LỢI PHẤT.
(Nghĩa :
Ðang phát “NGUYỆN”,
Sẽ phát “NGUYỆN”.
Muốn sanh về cõi nước của PHẬT A DI ÐÀ,
Cho nên, nầy “XÁ LỢI PHẤT”,
Trong “TỊNH TÔNG” thì điều “cần yếu” nhất cho người “NIỆM PHẬT” để đạt được “mục tiêu” chánh yếu là : VÃNG SANH CỰC LẠC
Thì không gì hơn là lời “PHÁT “NGUYỆN” vậy,
………………………
(Phần PHỤ LỤC : (của người chú giải):
Trong “Tịnh Tông”, điều cần thiết nhất cho người niệm PHẬT – là để đạt được mục tiêu chánh yếu “vãng sanh Cực Lạc” không gì hơn là “lời phát nguyện”.
Dùng “TÂM NIỆM” để đem tất cả “CÔNG ÐỨC” mình đã tu tập mà : QUY HƯỚNG VỀ NƠI MONG MUỐN (là sẽ ÐƯỢC SANH VỀ CỰC LẠC).
Bởi vì ví như có một chiếc ghe hay tàu chạy trên sông, tuy là có chèo, hoặc có máy móc đưa đi….nhưng sở dĩ nó đến đúng được nơi “BẾN GHÉ”, hoàn toàn là do ở nơi “NGƯỜI LÈO LÁI” mà ra cả.
Trong đường “Tu tập” (nói chung) và (riêng) cho pháp môn Tịnh độ, thì phần “PHÁT NGUYỆN” chính là một phương cách chánh yếu để :
DÙNG “TÂM NIỆM” VÀ “TÂM LỰC” CỦA MÌNH LÁI CON THUYỀN NIỆM PHẬT HƯỚNG ÐÚNG VỀ NƠI BẾN GHÉ “TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC”. HẦU GẶP ÐƯỢC ÐỨC “TIẾP DẪN ÐẠO SƯ” A DI ÐÀ PHẬT.
Vì thế cho nên ở nơi phần “phụ lục” nầy, người chú giải xin được bổ túc thêm vào một bài văn “PHÁT NGUYỆN” có “đầy đủ ý nghĩa” nhất của NGÀI Bát tổ “LIÊN TRÌ ÐẠI SƯ”, để cho các “liên hữu” y theo lời văn nầy mà tích cực tiến tu và cầu nguyện, để dễ dàng đạt được đến nơi Bảo sở.
Sau đây là lời “PHÁT NGUYỆN VĂN” trên và “phương thức” để áp dụng :
Hành giả quỳ ngay thẳng, chắp tay cung kính, đọc lời phát nguyện sau đây :
“Cúi lạy phương Tây cõi AN LẠC,
Tiếp dẫn chúng sanh đại đạo sư.
Nay con phát nguyện, nguyện vãng sanh,
Nhờ lượng từ bi thương nhiếp thọ”.
(Chuông và lạy xuống 1 lạy, vẫn quỳ, chắp tay, đọc tiếp) :
Nay con khắp vì :
Bốn ân, ba cõi,
Pháp giới chúng sanh.
cầu đạo Bồ Ðề, nhất thừa của PHẬT, chuyên tâm trì niệm, A DI ÐÀ PHẬT, muôn đức hồng danh, cầu sanh CỰC LẠC.
Lại bởi đệ tử, nghiệp nặng phước khinh, chướng sâu huệ cạn, nhiễm tâm dễ động, tịnh đức khó thành.
Con và chúng sanh, vô thỉ đến nay, mê muội chơn tâm, buông tham sân si, nhiễm dơ ba nghiệp [5], vô lượng vô biên, tội cấu đã gây, vô lượng vô biên, nghiệp oan đã kết.
Con xin “khấn nguyện” :
Xin đức Từ tôn, dùng “nguyện” Từ bi, chứng biết lòng con, thương xót đến con, gia bị cho con.
“Nguyện” khi Trì, Niệm, hoặc lúc mộng mơ, được thấy thân vàng, A DI ÐÀ PHẬT, được chơi cõi TỊNH, của đấng đạo sư, được nhờ Từ tôn, cam lộ rưới đầu, quang minh chiếu thân, tay xoa đảnh con, áo đắp thân con, khiến cho con được, chướng cũ tiêu trừ, căn lành thêm lớn, mau tiêu phiền não, chóng phá vô minh, viên giác tâm mầu, sáng bừng mở rộng.
Tịch quang cảnh thật, thường được hiện tiền.
Tâm dứt tất cả, tham luyến mê hoặc, các căn vui đẹp, chánh niệm phân minh, xả báo an lành, như vào thiền định.
Phật A DI ÐÀ, QUÁN ÂM, THẾ CHÍ, hai đại Bồ Tát, cùng chư hiền thánh, phóng quang tiếp dẫn, tay báu dắt dìu, lầu các tràng phang, nhạc trời hương lạ, Tây Phương cảnh Phật, bày hiện rõ ràng, khiến cho chúng sanh, kẻ thấy người nghe, mừng vui khen cảm, phát lòng Bồ Ðề. (Chuông, 1 lạy).
Bấy giờ thân con, ngồi đài kim cang, bay theo sau Phật, trong khoảng sát na, sanh vào sen báu, nơi ao thất bảo, ở cõi Tây Phương.
Ðược “thọ ký” xong, ba thân bốn trí [6], năm nhãn sáu thông [7], vô lượng trăm ngàn, môn đà ra ni, tất cả công đức, thảy đều thành tựu.
“Nguyện” lớn như vậy :
Nay con lễ PHẬT.
Phát nguyện tu trì.
Xin đem công đức,
Hồi thí hữu tình.
Bốn ân khắp báo,
Ba cõi đều nhờ.
Pháp giới chúng sanh,
Ðồng thành chủng trí.
(Chuông lạy 3 lạy).
TA thấy Ðức THÍCH TÔN cứ mãi nhắc đi, nhắc lại hai chữ : PHÁT “NGUYỆN”
“lời” và “ý” thảy đều “khẩn thiết”, cho đến phần cuối văn kinh của quyển “Tiểu bổn A DI ÐÀ” Kinh, NGÀI cũng vẫn còn có đôi phen bảo phải : PHÁT “NGUYỆN” CẦU ÐƯỢC VÃNG SANH CỰC LẠC
TẠI SAO VẬY ?
- Ở cảnh giới vô cùng mầu đẹp trang nghiêm,
- Ðược thân sắc huỳnh kim, đầy đủ 32 tướng tốt.
(Xem lại các thư “GỞI NGƯỜI HỌC PHẬT” cũ có nói các lời “NGUYỆN” về việc nầy).
- Dứt hẳn các nỗi khổ : “SANH”, “GIÀ”, “BỆNH”, “CHẾT”
- Ðược gần gũi với PHẬT, và chư Ðại BỒ TÁT, Thượng Thiện Nhơn.
- Ðược đầy đủ Thần thông, Tam muội.
- Mãi mãi không còn thối chuyển nơi quả vị “VÔ THƯỢNG BỒ ÐỀ”.
Lại nữa, Ta phải nên biết rằng :
- “TRÍ HUỆ” và “PHẬT NHÃN” của PHẬT nhìn thấy vô lượng sự lợi ích của việc vãng sanh như thế, cho nên NGÀI mới :
- Vận lòng “TỪ BI” vì để cứu độ các loài hữu tình mà khuyên chúng ta nên : PHÁT “NGUYỆN” VÃNG SANH
Tấm lòng “BI MẪN” của Ðức THÍCH TÔN và PHẬT A DI ÐÀ thật là vô lượng, không sao kể xiết.
ÐẠI BỔN “A DI ÐÀ” KINH (tức là “VÔ LƯỢNG THỌ KINH”)
-
Cõi “TA BÀ” (của chúng ta) có đến : 67 ức bậc “BẤT THỐI CHUYỂN” Ðại BỒ TÁT được sanh về CỰC LẠC.
(Ghi chú :
Ðây là chỉ nói đến hàng “BẤT THỐI CHUYỂN” Ðại BỒ TÁT được sanh thôi, còn nếu như nói đến các hàng : “TIỂU HẠNH” BỒ TÁT
Và :Những hàng “chúng sanh” tu tập Hạnh “NIỆM PHẬT” được vãng sanh về 9 phẩm, thì nhiều đến mức độ không sao kể xiết được).
-
Ở 13 quốc độ kia là :
- Cõi nước của Ðức PHẬT “VIỄN CHIẾU NHƯ LAI”,
- Cõi nước của Ðức PHẬT “BẢO TẠNG NHƯ LAI”.
- Cõi nước của Ðức PHẬT “VÔ LƯỢNG ÂM NHƯ LAI”,
- Cõi nước của Ðức PHẬT “CAM LỒ VỊ NHƯ LAI”.
- Cõi nước của Ðức PHẬT “LONG THẮNG NHƯ LAI”,
- Cõi nước của Ðức PHẬT “THẮNG LỰC NHƯ LAI”.
- Cõi nước của Ðức PHẬT “SƯ TỬ NHƯ LAI”,
- Cõi nước của Ðức PHẬT “LY CẤU QUANG NHƯ LAI”.
- Cõi nước của Ðức PHẬT “ÐỨC THỦ NHƯ LAI”,
- Cõi nước của Ðức PHẬT “DIỆU ÐỨC SƠN NHƯ LAI”.
- Cõi nước của Ðức PHẬT “NHƠN VƯƠNG NHƯ LAI”,
- Cõi nước của Ðức PHẬT “VÔ THƯỢNG HOA NHƯ LAI”.
- Cõi nước của Ðức PHẬT “VÔ ÚY NHƯ LAI”,
Cứ mỗi một “quốc độ” như vậy thì từ : 10 ức cho đến vô số bậc ÐẠI BỒ TÁT vãng sanh về CỰC LẠC.Ðó là chưa kể đến hàng :
“TIỂU HẠNH” BỒ TÁTVà :
Các hàng phàm phu phát tâm “TÍN”, “HẠNH”, “NGUYỆN” mà Tu hạnh NIỆM PHẬT….được vãng sanh về CỰC LẠC thì nhiều đến : KHÔNG SAO KỂ XIẾT ÐƯỢC vậy.
HỎI :
ÐÁP :
- Có Ðức PHẬT lấy 1 cõi Ðại Thiên Thế giới làm một “PHẬT ÐỘ” (như PHẬT THÍCH CA) lấy 1 cõi ÐẠI THIÊN làm một PHẬT ÐỘ (Tức là cõi “TA BÀ” nầy của chúng ta).
-
Có Ðức PHẬT lấy “hằng hà sa số cõi “ÐẠI THIÊN” làm một PHẬT ÐỘ.
Lại như theo trong KINH “PHÁP HOA” nói :
Sau nầy NGÀI “PHÚ LẦU NA DI ÐA LA NI TỬ” là một Ðại đệ tử của PHẬT, có biện tài “thuyết pháp vô ngại” sẽ thành PHẬT, hiệu là “PHÁP MINH NHƯ LAI”.
Ðức PHẬT nầy lấy “HẰNG HÀ SA” cõi “ÐẠI THIÊN” thế giới làm “PHẬT ÐỘ”. -
Chẳng hạn như Ðức Bổn sư THÍCH CA NHƯ LAI làm giáo chủ cõi “TA BÀ” gồm có “MỘT TỶ” thế giới nhỏ khác. Ở tại một Tỷ thế giới nhỏ đó, NGÀI hóa hiện ra “MỘT TỶ” PHẬT THÍCH CA, thị hiện đầy đủ “TÁM TƯỚNG THÀNH ÐẠO” (từ lúc “ÐẢN SANH”) cho đến, lúc “NHẬP NIẾT BÀN” (gọi là “THIÊN BÁ ỨC HÓA THÂN THÍCH CA MÂU NI PHẬT).
Thế thì :
Cõi “CỰC LẠC” gồm có cả đến từ : “ỨC, TRIỆU (TỶ) đến “HẰNG HÀ SA cõi ÐẠI THIÊN THẾ GIỚI”
Thì :LO GÌ KHÔNG ÐỦ CHỖ CHỨA Ư ?
Vả lại :“Y BÁO” tùy theo “CHÁNH BÁO” mà hiện thành, cho nên Người vãng sanh nhiều bao nhiêu, thì : “CẢNH GIỚI” (QUỐC ÐỘ CỰC LẠC) cũng theo đó mà hiện ra rộng rãi bấy nhiêu.
Nói tóm lại :
“TÍN”, “HẠNH”, “NGUYỆN”
“NGUYỆN” là quan yếu đứng vào hàng bậc nhất vậy.
“NIỆM PHẬT” công đức “THÙ THẮNG” hạnh,
Vô biên thắng Phước giai hồi hướng.
Phổ “NGUYỆN” pháp giới chư chúng sanh,
Tốc vãng “VÔ LƯỢNG QUANG” [9] PHẬT sát.
“NGUYỆN” tiêu tam chướng, trừ phiền não,
“NGUYỆN” đắc trí huệ chơn minh liễu.
Phổ “NGUYỆN” tội chướng tất tiêu trừ,
Thế thế thường hành BỒ TÁT đạo.
“NGUYỆN” sanh TÂY PHƯƠNG TỊNH ÐỘ trung,
Cửu phẩm LIÊN HOA vi phụ mẫu.
Hoa khai kiến PHẬT ngộ vô sanh,
Bất thối BỒ TÁT vi bạn lữ.
“NGUYỆN” :
Dĩ thử công đức,
Phổ cập ư nhứt thiết.
Ngã đẳng dữ chúng sanh.
Giai cộng thành PHẬT đạo.
(Chuông, 1 lạy)
(Phụ chú :
Như vậy thì đủ thấy là lời : “NGUYỆN” quan trọng xiết bao.
“NIỆM PHẬT” là hạnh tốt lành,
Bao nhiêu “phước đức” sẵn dành chúng sinh.
“NGUYỆN” cho tất cả hàm linh,
Sớm về cõi TỊNH, nghe Kinh diệu huyền.
“NGUYỆN” tiêu ba chướng não phiền,
Cầu chơn “TRÍ HUỆ” phá xiềng vô minh.
“NGUYỆN” trừ tội chướng điêu linh,
Hạnh lành BỒ TÁT thường tinh tấn làm.
“NGUYỆN” sanh cõi TỊNH siêu phàm,
Hoa sen chín phẩm sẽ làm MẸ, CHA.
Hoa nở thấy PHẬT hiện ra,
Vô sanh chứng ngộ bạn ta THÁNH HIỀN.
“NGUYỆN” đem công đức hiện tiền,
Hướng về khắp cả các miền gần xa.
Con và Cha Mẹ Ông, Bà,
Chúng sanh giác ngộ chan hòa Pháp thân. (Chuông 1 lạy)
“NGUYỆN” như thế nầy thì mới được gọi là “CHƠN NGUYỆN” của người TU “TỊNH ÐỘ” vậy.
[1]– BỐN “ÂN”, BA “CÕI” : là:
-
4 Ân : là 4 thứ “đại ân” – (ân đức lớn) – đối với mình, đó là :
- Ơn Cha mẹ sanh dưỡng (Phụ mẫu sanh thành)
- Ơn đàn na, tín thí (người ngoại hộ (phần “Tứ đại) và nội hộ (tức là làm cho Ta được “yên tâm” mà “TU HÀNH”).
- Ơn THẦY, TỔ dạy dỗ, dắt dìu.
- Ơn PHẬT từ bi xót thương, tiếp độ.
- Ba cõi : là (Chúng sanh trong 3 cõi DỤC GIỚI, SẮC GIỚI, VÔ SẮC GIỚI)
[3]– TÍN NGUYỆN đây là 2 trong 3 “yếu điểm” chánh của “TỊNH ÐỘ” pháp môn.
[4]– Khi mình “NIỆM PHẬT” như thế, thì nơi ao “LIÊN TRÌ” liền mọc lên một “BÔNG SEN”, trên mặt “bông sen” ấy đã có : “GHI SẴN TÊN (CỦA) MÌNH”. Ðến khi “MÌNH” VÃNG SANH rồi, thì về ngồi lên trên Bông sen đó.
[5]– Nhiễm dơ ba nghiệp : là Thân, Khẩu, Ý phạm đầy đủ thập ác tội… (Thân 3, Khẩu 4, Ý 3).
[6]– Ba thân bốn trí :
-
Ba thân là :
- Thanh Tịnh pháp thân (Tỳ-lô giá na thân)
- Báo thân (Tự “thọ-dụng” thân)
- Ứng hóa thân (Tha “thọ-dụng” thân)
-
Bốn trí là :
- Thành sở tác trí (do năm thức của Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân chuyển thành.
- Diệu quán sát trí : Do “Ý thức” chuyển thành.
- Bình-đẳng tánh trí : Do thức thứ bảy là “MẠT NA” chuyển thành.
- Ðại viên cảnh trí : Do thức thứ tám là “A LẠI DA” chuyển thành.
- Năm nhãn là : Phật nhãn (của Phật), Pháp nhãn (của Bồ-Tát), Huệ nhãn (của Thanh văn), Thiên nhãn (của trời), Nhục nhãn (của người).
- Lục thông là : Thiên nhãn thông, Thiên nhĩ thông, Tha tâm thông, Thần túc thông, Túc mạng thông, Lậu tận thông.
[9]– “VÔ LƯỢNG QUANG” Phật sát là : Cõi nước “CỰC LẠC” của PHẬT “VÔ LƯỢNG THỌ” (tức là PHẬT A DI ÐÀ vậy).
Bình luận