(Trả lời đến đạo hữu Nguyễn Cãnh D., Washington, D.C.)
Hỏi :
Phật tử. Tôi và gia đình cũng thế. Mặc dầu là Phật tử, nhưng thú thật vì sinh kế nên tôi phải ngược xuôi từ nhỏ đến giờ, ít khi có dịp rảnh đến chùa lạy Phật và học hỏi kinh điển, đạo lý…
Trả lời
Ðể tuần tự phúc đáp lời thơ của đạo hữu, trước hết tôi xin vạch ra đây những sự kém yếu đáng buồn của các hàng Phật tử đời nay, và sau nữa là lược qua về việc thế nào mới đáng được gọi là người con của Phật
- Các sự hay, dở, hơn, kém, thấp, cao, lỗi lầm chi chi… cũng là đều do ở nơi ta mà ra cả.
Vậy lỗi ấy là lỗi gì
Hỡi ôi ! các việc như thế quả thật là một “đại lỗi lầm”, một sự suy nghĩ cạn cợt đáng rất nên thương xót !
Sách có câu:
Hoặc như :
Tài thắng đức là kẻ tiểu nhơn.”
quỷ thần mà cũng còn phải kính trọng người có đạo đức kia thay. Huống chi chúng ta là hàng phàm phu bạt địa, tội nhiều, chướng nặng mà lại dám xem thường điều “đức hạnh” hay sao
Nên có câu rằng :
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Hầu hết các người quyền quý, giàu sang, chức phận xưa nay, đa phần đều vướng vào nơi lỗi “trọng tài, khinh đức” đó. Cho nên càng ngày càng bị lún sâu thêm vào trong bùn lầy “danh vọng hão huyền”, của thường tình nhân thế, vì vậy mà mỗi ngày mỗi thêm cách xa mối đạo.
-
Kẻ tu hành (chơn thật) kia tuy là quê mùa, dốt nát, không quyền quý cao sang, suốt đời chỉ biết ăn toàn dưa muối, tương rau, mặc đồ nâu sòng, bố vải, quanh năm suốt tháng, tụng ê a kệ kinh vô nghĩa (theo họ nghĩ) như thế, mà có ngày được vãng sanh về chín phẩm sen, thành bậc thánh nhơn hầu kề bên Phật, còn họ thì cứ mải phóng tâm ruổi dong nơi các nẻo trần lao như vậy, thử hỏi mai sau khi bỏ thân xác nầy rồi, trong sáu nẻo luân hồi mênh mang vô-tận kia, thần thức biết gởi về đâu
Cho nên các người chỉ biết tôn thờ chữ “Tài”, cùng với những kẻ chấp theo “ngã nhơn” một cách quá đáng, chuộng danh lợi làm cứu cánh mà bỏ phế nền đạo đức, chạy theo các trần cảnh bên ngoài mà bỏ cái “Tâm chơn thật” ở bên trong, thì kẻ ấy không đáng được gọi là bậc hiền nhơn quân tử và là người có “chân tài” vậy.
Chữ “quân tử” mà hãy còn chưa được thay, há dám tự nhận mình là người “Phật tử”, tức là con của Phật hay sao
Vậy thì như thế nào mới được gọi là con của Phật
- Chính là do nơi có lỗi phải biết sám hối.
- Có tội phải biết dứt trừ.
- Bỏ các sự dong ruổi nơi tình trần, quay tâm về hướng giác, gieo nhơn lành, dứt điều ác và y theo Phật pháp tu hành.
Nguyện rằng:
- Nay ta may mắn còn được đôi chút thời gian ngắn ngủi nơi cõi đời nầy, vậy ta phải nên nuôi dưỡng lòng nhân từ, tích chứa nhiều công đức. Ăn chay, niệm Phật, phát nguyện vãng sanh về chốn Tây phương, vv…
Ấy mới thật gọi là chơn Phật tử vậy.
Trên đây, tôi đã sơ lược về việc thế nào gọi là “chơn thật Phật tử” rồi. Mong đạo hữu tạm xem và hiểu qua như vậy.
- Thầy còn phân biệt các loại Phật tử như vậy, là không có lòng bình đẳng…
Tôi cũng sẽ nói cùng với người ấy rằng :
- Cực chẳng đã nên mới phải bày tỏ ra như vậy mà thôi. Bởi vì trong những năm gần đây, có một số người thuộc các tôn giáo khác dối xưng rằng trước kia họ là Phật tử, hoặc là người xuất gia từ chốn thiền môn mà ra, (hoàn tục) vv… Việc ấy gây nên một sự thắc mắc lớn trong hàng ngũ sơ học Phật tử kém hiểu biết giáo lý và ít có đức tin, cùng tạo nên một vài đề tài châm biếm cho bàng quan, thiên hạ.
Hơn nữa những tín đồ của các tôn giáo ấy lại được dịp cười chê, mai mỉa rằng :
- Sở dĩ có tình trạng Phật tử bỏ đạo như vậy là vì giáo lý của đạo Phật bất minh, không có nơi quy hướng rõ ràng, hoặc bảo đạo Phật là một tôn giáo mê tín, dị đoan, vv…
Những người dối xưng (Phật tử) như thế thật đã gây tổn thương không ít cho mối đạo của ta. Nên nay nhơn dịp nầy, bất đắc dĩ lắm tôi mới phải ít nhiều biện minh như thế mà thôi.
- Trước hết vì muốn giảng ra một thời pháp ngắn cho các người học Phật biết rõ thế nào gọi là chơn, giả Phật tử.
- Sau nữa là hàm ý trấn an đến cho hàng ngũ sơ học Phật tử cùng các môn đệ còn kém cỏi đức tin…
Phải biết rằng :
Còn việc của vị tăng nhơn kia hoàn tục, đó cũng là một chuyện thông thường trên xả hội mà thôi, chớ đâu có chi đáng gọi là kinh thiên, động địa, vả lại tôn giáo nào mà lại chẳng có xảy ra các sự việc tương tợ như vậy. Cho chí đến các lời mỉa mai, trề nhún từ nơi các người có chủ tâm ác ý phá hoại và xuyên tạc đạo Phật, đâu đáng để cho người học Phật có trí huệ phải bận lòng.
- Người đời nay, phần nhiều không ai chịu xét đến cái “chỗ bắt đầu”, hay do đâu mà ra cả. Hễ vừa mới thấy có đứa học trò nào ngỗ nghịch thì “giận lây” đến giáo pháp của bậc thánh nhơn. Chớ chẳng bao giờ nghĩ đến câu:
………………..
- Xưa nay, người có trí huệ, biết cùng suy, cạn xét, tâm ý rộng rãi, biết rõ những điều phải, trái, còn không vì cái thân phận của một người hèn mọn mà bỏ đi lời nói hay của nó thay.
- Huống chi nay lại cố chấp (một cách nông cạn) vào các sự lỗi lầm, dốt nát của kẻ làm học trò mà chưởi mắng đến bậc giáo chủ, hay là khinh rẻ giáo pháp cùng nguyên cả đạo giáo của người ư
Nay tôi xin kể lại một vài chuyện xưa, người trí giả nhơn đây mà ít nhiều nghĩ suy, sáng tỏ:
-
Tâu bệ hạ, mưa mùa xuân tầm tả như dầu, người nông phu mừng cho ruộng đất được ướt nhuần, lúa mạ tốt tươi.
Nhưng kẻ bộ hành lại ghét vì đường xá trơn trợt. -
Trăng mùa thu trong sáng như gương, hàng tao nhân, mặc khách mừng gặp dịp thường du, ngâm vịnh.
Nhưng bọn đạo tặc lại ghét vì ánh nguyệt quá rõ ràng (khó thể “làm ăn” được). -
Như trời, đất vô tư mà cơn nắng, mưa, thời tiết, còn bị thế gian trách hận, ghét thương, thì hạ thần đây đâu phải là người toàn vẹn, làm sao tránh khỏi sự chê bai chỉ trích
Cho nên kẻ ngu ý trộm nghĩ, đối với tiếng khen chê, nên bình tâm suy xét, đừng vội tin nghe. - Nếu vua tin nghe thị phi thì tôi bị giết.
- cha mẹ tin nghe lời thị phi tất con bị hại.
- Anh em, vợ chồng tin nghe lời thị phi, tất cốt nhục thân thuộc chia lìa.
-
Xóm chòm nghe theo tiếng thị phi tất sẽ đi đến chỗ đoạn tuyệt.
Miệng lưỡi thị phi thật độc hơn rồng, rắn, bén quá gươm đao, giết người không huyết…
Như Hứa kỉnh Tôn đây, sử sách chê là một đứa gian thần, nhưng dù sao lời nói của ông cũng chí lý, đáng làm gương cho kẻ khác, cùng khuyên nhắc hàng hậu lai. Cho nên câu nói bất hủ đó vẫn được người đời truyền tụng.
2/- Xưa vua Ðường Nghiêu là một bậc thánh vương, được liệt danh vào hàng “Ngũ Ðế” đủ đầy đạo đức, mà sanh ra người con trai tên là Ðơn Châu ngỗ nghịch, bất hiếu, hay đi chơi giởn, dông dài [1], đến nỗi vua Nghiêu phải phế bỏ người con trai của mình đi mà nhường ngôi lại cho vua Thuấn.
-
Có thể vì người Ðơn Châu kia mà đổ lỗi hay trách mắng vua Nghiêu là một vị vua ác đức không
Hay là mãi mãi về sau mỗi khi nhắc đến tên của vị Ðế vương nầy ai lại không cúi đầu bái phục
3/- Còn vua Ngu Thuấn cũng là một vị thánh vương (trong hàng ngũ đế), đầy đủ đức hạnh, ấy vậy mà sanh ra người con trai tên Thương Quân, ngỗ nghịch, nói dạy chẳng nghe lời [2], không tùng theo giáo huấn, đến nỗi vua Thuấn phải phế bỏ con trai mình mà truyền ngôi cho vua Vỏ [3].
-
Há có nhơn vì việc người Thương Quân ấy mà quy tội, đổ lỗi cho vua Thuấn không Ngàn muôn đời sau có ai cười chê vua Thuấn không
Hay là mỗi khi nhắc đến vị thánh vương nầy, có ai lại là người không sanh lòng kính phục
4/- Lại nữa như có kẻ nào đó uống thuốc sái phép nên bị chết đi, mà thân nhân của họ lại chưởi mắng tổ sư của ngành thuốc là Ngài Thần Nông (vốn là một vị hoàng đế được liệt danh vào trong hàng Tam hoàng) bao giờ không
5/- Lại có kẻ vung lửa nhỏ thành to, trở nên một đám cháy lớn, đốt thiêu hết nhà cửa, của cải, không sao chữa nổi được, rồi lại cả tiếng chưởi mắng, phiền trách bà Hỏa hay không
……………..
Nếu như trả lời rằng : KHÔNG
Thì tại sao lại nhơn nơi việc vị tăng kia hoàn tục, lập gia đình, hay tuyên bố bậy bạ vài ba điều gì đó, lại giận trách và khinh chê đạo Phật, hủy nhục cả giới tu hành
- Các kẻ đó không sợ phạm vào tội “khẩu nghiệp” một chút nào cả ! Ôi, nói cho sướng miệng trong vài ba phút để hả đi cái lòng giận tức, thỏa mãn được tâm thị phi mà không biết là mình đã vô tình gây nên các điều tội lỗi lớn lao :
Bứt dây động rừng.”
- Khinh hủy, chưởi mắng phàm tăng, tức là động lây đến thánh tăng vậy. Người khinh bạc như thế sẽ bị quả báo muôn kiếp, ngàn đời về sau không có thầy dẫn dắt, để chỉ rõ đâu là nẻo chánh, đường chơn. Rốt lại tự mình (vì ngu si) gây tạo nên nhiều điều tội lỗi mà không hay biết. Do đó cho nên phải bị thọ khổ mãi mãi trong ba ác đạo, biết bao giờ thoát ra khỏi được !
Còn đối với người Phật tử chơn thật và biết đạo thì việc đó chỉ nên nghĩ rằng :
- Ðường tu tâm, lập nguyện của người xuất gia, có hai điều quan trọng :
- Một là mình thắng nghiệp,
- Hai là nghiệp thắng mình.
a/- Nếu như mình thắng nghiệp thì con đường giải thoát sẽ rộng mở, lại nữa nhờ do nơi nhứt tâm tu hành, niệm Phật, và tinh tiến hành trì tất có ngày sẽ được cảnh “nghiệp dứt, tình không, chứng thành chánh quả.”
- Dù cho người ấy nay đã hoàn tục, hay là gì gì đi chăng nữa, nhưng họ cũng đã có một thời gian tu hành, miệng của người ấy cũng đã từng có một hay nhiều lần niệm Phật, tụng kinh, và cũng từng đã có một thời gian lâu, mau (nào đó) khuyên dạy mọi người làm lành, lánh dữ… rồi.
Như vậy thì dù cho nay họ (vì không thắng nổi nghiệp) mà hoàn tục đi chăng nữa, nhưng xét cho cùng lại thì họ cũng vẫn còn khá hơn các kẻ ác nhơn suốt đời chưa từng biết đến một lần nói lời “phun châu, nhả ngọc,” hay lễ bái tu trì,… khác rất nhiều.
Do vì (và nhờ) nghĩ được như vậy cho nên tâm khoan dung, từ bi, tha thứ liền được phát sanh ra mà rộng lòng hỷ xả vậy.
quân tử là người ngoài đời mà còn hành xử như vậy, há chi ta là con Phật, lại không phát được đại tâm hỷ xả (nhiều hơn) thế nữa hay sao
Cho nên đức Lục tổ có dạy trong kinh “Pháp Bảo Ðàn” rằng :
Ta lỗi bởi chê khinh.
Không thấy lỗi củangười.
Nếu như thấy lỗi người,
Mình chê là kém, dở.
Người quấy, ta đừng quấy,
Ta quấy, bởi chê khinh.
Muốn phá tan phiền não,
Hãy trừ tâm thị phi.
Thương ghét chẳng để lòng,
Nằm thẳng đôi chân ngủ.
Tâm thường thanh tịnh gọi chơn tu,
Sân hận tham si ấy ám u.
hỷ xả từ bi kêu thật hạnh,
Vị tha Bác ái bậc hiền nhu.
Vạn pháp đều không danh thật tướng,
Ngũ uẩn ra ngoài ấy trượng phu.
Nhứt niệm chung thân gìn giữ mãi,
A Di Ðà Phật tức thời thu.
So với dân chúng thời đó (và cả thời nay nữa) thì người Ðơn Châu nầy cũng là “một bậc nhơn hiền” còn đáng quý trọng hơn nhiều.
Cũng như người Ðơn Châu (ở trên) là nếu so sánh với cha mình là vua Ngu Thuấn thì không bằng mà thôi.
Chớ so với các người dân thường khác trong nước thời đó (và cả thời nay nữa) thì Thương Quân lại cũng là một bậc nhơn hiền…
Bình luận